THÁI BÌNH MINH TRIẾT I Kim-Ðịnh
CHƯƠNG II: NGUYÊN LÝ MẸ
Nói đến nguyên lý Mẹ là nói đến đợt sâu xa nhất của văn hóa quen được mệnh danh là triết lý siêu hình. Triết Việt đã tóm siêu hình vào ba loại chân lý nền tảng hơn hết rồi chỉ thị bằng các số 2, 3, 5.
8. Trước hết là số 2 với biểu hiệu (thái cực viên đồ) thì Âm xuất hiện bên trái và ở trên, tức là âm trước dương, vợ trước chồng, Mẹ trước cha. Kém một bực là thứ tự dương âm: đặt dương trứớc âm, càn trước khôn, phu trên phụ thì lièu minh mất Mẹ. Còn khi đi vào duy nào dù duy âm hay duy dương đều mất nguyên lý Mẹ. Việt đã giữ được thứ tự âm dương hơn Tàu khi nói vợ chồng, nhà nước, vài ba, chẵn lẻ... tức đặt âm trước dương, khôn trước càn. Tàu nói Càn Khôn, phu phụ, quốc gia, tham lưỡng, cơ ngẫu... tức đặt dương trước âm, tuy cũng còn giữ được nguyên lý Mẹ, nhưng đã kém đi nhiều, nên quen gọi là Hán nho, tức là nho đã bị bẻ quặt. Tuy nhiên còn khá hơn những nền văn hóa không còn số 2, đã trở nên cố định một chiều duy âm hay duy dương như sẽ thấy sau. Khi ta nói vợ chồng, vài ba, nhà nước, thì không phải là thói quen suông, mà chính là hậu quả do một nguyên lý có nền móng siêu hình hẳn hoi; chứng cớ là thứ tự đó đã được tôn trọng và quảng diễn ra nhiều hình thái khác nhau như tam taì (số 3) ngũ hành (số 5) hay Việt tỉnh cương (số 9) 9. Hãy trở lại với hình "thái cực viên đồ đơn" và ta thấy âm trên. Hình này thường thấy đặt lung tung do sự mất ý thức hay do Hán Nho nhưng khởi đầu thí âm phải đi trước, ở bên tả. Có vậy mới ra quẻ Thái * h3.* để đạt sự hanh thông, còn nếu đặt ngươc lại Càn trên Khôn thì ra quẻ Bĩ *h4* không ra người nữa, như câu Kinh Dịch nói "Bĩ chi phỉ nhơn". Với câu đó ta thấy Kinh Dịch quan trọng hóa thứ tự âm dương biết bao, đến độ nói đặt dương trước âm thì không ra người, tức không còn là Nhân Chủ nữa, mà đã ra Vật Chủ tức nghiêng sang bên vật chất, thể gọi là trục vật. Thứ đến có đặt âm trước dương mới giữ được cổ tục Việt trọng bên tả gọi là "tả nhậm", tức âm đặt bên tả như được biểu lộ rõ nhất trong hình Nữ Oa Phục Hi. * h5* Nữ Oa bên tả, Phục Hi bên hưũ, do đó ta có tục "nữ tả phòng, nam hữu phòng". Về sau Tàu đổi thứ tự thành "nam tả nữ hữu" theo thứ tự "Càn khôn" cho con trai sang bên tả như ta quen nghe nói "Ðông cung thái tử". Ðó là dấu dương lần át âm để dành chỗ tốt.
(Chú thích *6) Thứ tự âm dương hay vài ba nói lên chủ quyền đầu trước hết về quyển Kinh Dịch là Việt tộc. Tàu đến sau và làm khác đi bằng đặt càn trước khôn, tham trước lưỡng. Ngũ hành cũng vậy, thứ tự bình dân (tức Việt tộc) nói "kim mộc thủy hỏa thổ". Ðó là nét ngang trước [kim-mộc], nét dọc [thủy- hỏa] sau, tức đặt âm trước dương: nét ngang là âm, nét dọc là dương. Còn Hán Nho thì dọc trước ngang sau, với thứ tự trong Kinh Thư là:"thủy hỏa mộc kim Thổ". 10. Số 3 là Tam Taì: Trời, Ðất, Người, hay là Thiên hòang, Ðịa hoàng, Nhân hòang.
Nhân hòang cũng gọi là Oa hòang. Huyền thọai qui cho Bà công lập ra phép linh
phối, tức nối trời cùng đất. Thứ tự bộ ba này được chiếu giãi vào ba đầu rau,
trong đó có hai ông một bà. Theo luật "quả vi quân, chúng vi dân" (ít làm vua,
nhiều làm dân) thì bà làm chủ bộ ba, cho nên số ba cũng là số của các thần nữ,
như nữ thần Mộc (hành mộc số 3). Ở số ba ta thấy Hán Nho đưa ra Hòang đế chiếm
chỗ của Oa ho 79ang, thành ra bộ Tam hòang mới là Phục Hi, Hoàng đế, Thần Nông:
đẩy Nữ Oa ra ngòai không còn ai cằm Cái Qui tức là đánh mất Minh Triết, vì Nữ Oa
chỉ nền Minh Triết hay Nguyên lý Mẹ cũng thế. Tuy nhiên chưa đến nỗi đực rựa như
các bộ ba duy thần của nhiều văn hóa khác thí dụ của Aryen bên Ấn độ với ba
thần: lửa, sét, nhật (Agny, Indra, Surya. Bộ ba của Ai cập: Shamar=nhật,
Namar=trăng, Bel=đất. Ðến đây ta phải nói tới lâu đài rực rỡ cuối cùng là "Việt tỉnh cương". Theo nghĩa thường thì Việt tỉnh là giếng của Việt tộc chỉ thị nền Minh TRiết vô cùng, múc không bao giờ cạn. Phương ngôn nói: "bằng cái sàng ba làng ăn không hết". Câu ấy cùng nghĩa với Hành Thổ có tính chất vô biên. Việt tỉnh cương phát xuất từ khung chữ Tỉnh #, rồi sau thêm 4 ô ở 4 góc thành ra Cửu Lạc như hình *7*. Sau Cửu Lạc được Nho công thức hóa thành "Hồng Phạm Cửu Trù", rồi lại biến ra "Thài Thất" để chỉ bản Tính con Người. Vì thế khi hiện thực được Tính thể con người Ðại Ngã tâm linh thì gọi là "nhập ư thất"= vào được Thái Thất. Thái Thất có ba tầng chỉ trời, đất, người. 12. Muốn hiểu hai chữ Thái Thất thì nên đối chiếu với chữ gia. Gia chỉ con trai. Thất chỉ con gái. Gia kép bởi bộ miên và thỉ. Thất kép bởi miên , công và thổ. Miên là mái nhà chỉ trời, Công (công biến thế) chỉ tác động nên cũng chỉ con ngừơi được định nghĩa là tài, là tác, là tác viên. Còn Thổ là đất. Thế là ngay chữ Thất đã hàm tàng 3 yếu tố lớn lao hơn hết làm nên con người (nhân giả kỳ thiên địa chi đức). Vì thế Thái Thất chỉ bản Tính con người. *hình Thái Thất *8* Nhiều người trách Nho hạ đàn bà quá xá như viết chữ gian với ba chữ nữ . Ðó có thể là Hán nho. Dầu sao đó là ba cái lẻ tẻ xá chi: cần nói tới nền tảng thì chính đàn ông mới bị. Ai đời đàn ông được có chữ miên với thỉ là heo ! Oan quá phải không các cụ? Ấy là chưa kể tới bộ kỳ chỉ linh thiêng thì cũng âm (số 2) ở trên, dương (số 3) ở dưới. Vì thế khi viết chữ diệu (huyền) thì dùng bộ nữ chứ nam có được dự phần đâu. Tóm lại khi xem bao trùm cả ba số nền tảng 2, 3, 5 thì thấy cả là một bản chói chang về Nguyên lý Mẹ, vì ở cả ba số Mẹ đều ở thế thượng phong. Số 2 thì âm đi trước (ladies first). Số 3 thì Mẹ làm vua ở giưã hai ông đóng vai dân. Số 5 thì Mẹ bao quát hết (Mẹ tròn con vuông) để làm nội tướng cũng gọi là Thái Thất, đẩy ông ra ngòai cằm cái củ vuông 4 góc bé nhỏ gọi là cá (4 số chỉ cái củ của ông). 13. Bây giờ kiểm soát xem việc làm của Mẹ có được như địa vị tiên thiên vừa kể chăng? Trước hết ta thấy Nữ Oa thái mẫu đội đá vá trời. Bà Hi Hòa tắm cho mặt nhật. Toàn những việc có tầm kích vũ trụ. Mẹ Âu Cơ đưa 50 con lên núi lập ra nước Văn lang. Việc lập nước là công của Mẹ. Sau này cứu quốc thì công đầu cũng là Trưng nữ vương với bà Triệu, chứ các ông mãi cả nhiều trăm năm sau mới lò dò bò ra. Câu nói: Mẹ Âu Cơ đem 50 con lên núi thì phải hiểu nguyên lý Mẹ dãn đoàn con đến chỗ triệt cùng triệt để, tức là dẫn đến chỗ Minh Triết, nói kiểu siêu hình là đén chỗ phân cực triệt thượng, để đối với Lạc long quân"triệt hạ" ở đáy bể, tức đều là những việc lớn lao có tầm vòc vũ hoàn. So với bà Pandore tò mò mở hộp cho tai ương tràn ra trên mặt đất thì ta thấy rõ văn hóa tây âu bóp chết nguyên lý Mẹ khi đổ lên đầu các bà hết mọi tội lỗi, và thế là nguyên lý Mẹ bị gảy ra khỏi văn hóa. Người ta quen gọi đó là tật ghét đàn bà= misogyni=hatred of women. Tật này lan tràn trong triết tây, có thể tóm vào câu nói sau" mọi tội lỗi trong thế gian này là do đàn bà". Câu đó được nói ra do rất nhiều ntgười, vì ngày xưa người ta tin như thế, mãi tới nay mới nhận ra rằng niềm tin đó là bởi các đực rựa đưa ra do hậu quả của nền triết học duy lý, thiếu tình người (tình Mẹ, lý Cha). Thái độ đó được chiếu giãi vào huyền thọai Hi lạp kể về nữ thần Hera bị chồng là thần Zeus treo lên mà đánh. 14. Ta hãy soát lại ba số 2, 3, 5 lần cuối cùng:
|