|
Bản điều trần của Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA)
Về việc đảng Cộng-sản Việt-Nam, Lãnh đạo nhà nước
cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc
Ngày 10-11-2001
Bí ẩn về việc đảng Cộng-sản lãnh đạo
nhà nước Việt-Nam nhượng lãnh thổ,
lãnh hải cho Trung-quốc.
Giáo-sư Trần Đại-Sỹ
... (tiếp theo)
Kính thưa Quý-vị,
Tôi vừa lướt qua vài nét đơn sơ về biên giới Hoa-Việt, về ngoại giao Hoa-Việt trong thời gian 989 năm. Bây giờ tôi xin đi thẳng vào đầu đề hôm nay, về việc:
-
Đảng Lao-động
Việt-Nam lãnh đạo nhà nước Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa (VNDCCH, 1945-1975).
-
Đảng Cộng-sản
Việt-Nam lãnh đạo nhà nước Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN,
1975-2001)
Nhượng lãnh
thổ, lãnh hải cho Trung-hoa Nhân-dân Cộng-hòa quốc gọi tắt là Trung-quốc.
3. VỤ VIỆT-NAM DÂN CHỦ CỘNG-HÒA NHƯỢNG LÃNH HẢI CHO TRUNG-QUỐC.
3.1, Kết quả của văn kiện 14-9-1958.
Ngày 4-9-1958, chính phủ Trung-quốc tuyên cáo về lãnh hải 12 hải lý kể từ đất
liền của họ, có đính kèm bản đồ rất rõ ràng. Bản tuyên cáo này chỉ có hai nước
công nhận đó là VNDCCH và Bắc Cao (Cộng-hòa Nhân-dân Triều-tiên). Việc VNDCCH
công nhận như sau: Ngay khi nhận được bản tuyên cáo do sứ quán Trung-quốc tại
Hà-nội trao, Chủ-tịch Hồ Chí Minh triệu tập Bộ Chính-trị đảng Lao-động Việt-Nam
(tức đảng Cộng-sản Việt-Nam ẩn danh). Trong buổi họp này toàn thể các thành viên
nhất trí chấp nhận bản tuyên bố của Trung-quốc. Ngày 14-9-1958, Thủ-tướng Phạm
Văn-Đồng tuân lệnh Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, gửi văn thư cho Tổng-lý Quốc-vụ viện
Trung-quốc (Thủ-tướng) là Chu Ân-Lai, trong đó có đoạn (Văn thư đính kèm 1):
"Chính-phủ nước Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa tôn
trọng quyết định ấy, và sẽ chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng-hòa
Nhân-dân Trung-hoa trên mặt biển".

Ngắt đoạn 3,
Cử tọa thắc mắc, câu hỏi 3,
Ngoài bản văn này, liệu chúng ta có thể tìm lại một vài chi tiết khác
không?
Gs. TĐS,
Thưa Ngài nhiều lắm, nhưng tôi chỉ xin cử vài tài liệu mà thôi:
- Bản tin UPI-AFP ngày 23-9-1958.
- Vụ việc này báo chí Việt-Hoa đều có đăng tải ngày 23-9-1958, Quý-vị có
thể tìm tại thư viện Paris, London và cả một số thư viện Trung-quốc
(Bắc-kinh), Việt-Nam (Hà-nội). Nội dung UPI- AFP đều đánh đi đại lược:
"Ngày 22 tháng 9 năm 1958, Đại-sứ của VNDCCH tại
Trung-quốc là ông Nguyễn Khang, đã trao công hàm cho ông Cơ Bằng Phi,
Thứ-trưởng Bộ Ngoại-giao Trung-quốc.
Nội dung như sau:
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải
phận Trung-quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa trên mặt biển".
- Tháng 5 năm 1976 (chúng tôi quên ghi ngày), nhật báo
Sài-gòn Giải-phóng, cơ quan ngôn luận của Thành-ủy Thành phố Hồ Chí Minh
viết một bài xác nhận quần đảo Hoàng-sa, thuộc Trung-quốc. Nguyên văn có
câu:
"Trung-quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là
người đồng chí, mà còn là ông thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình
để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng-sa thuộc Trung-quốc
hay thuộc ta cũng vậy thôi. Trung-quốc với là hai nước sông liền sông, núi
liền núi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại quần đảo này, Trung-quốc sẽ sẵn
sàng giao lại".
- Sau trận hải chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988 với
Trung-quốc, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Cộng-sản Việt-Nam, tờ
Nhân-dân, số ra ngày 26 tháng 4 năm 1988, tự biện hộ về việc nộp lãnh hải
của Bộ Chính-trị thời Hồ Chí Minh như sau:
"Đúng là có những lời tuyên bố đó. Cần phải đặt lại
những lời tuyên bố này trong bối cảnh lịch sử của nó... Trong cuộc chiến
đấu một mất một còn, chống một kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự lớn hơn
mình nhiều, Việt-Nam tranh thủ được Trung-quốc gắn chặt với cục chiến đấu
của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chận Mỹ sử dụng hai quần đảo cũng
như vùng biển Đông chống lại Việt-Nam, thì càng tốt bấy nhiêu".
Kính thưa Quý-vị, tôi xin tiếp tục,
Theo bản tuyên bố này thì những nước liên hệ là:
- Trung-hoa Dân-quốc (Ðài-loan),
- Nhật-bản,
- Hoa-kỳ (hạm đội 7),
- Phi-luật-tân,
- Mã-lai,
- Brunei,
- Indonésia,
- VNDCCH và Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH).
Thế nhưng từ hồi đó đến nay các nhà nghiên cứu Âu-Mỹ cho đến
các nước Á-châu Thái-bình-dương (ACTBD) không hề để ý đến văn thư trên. Ngay
VNCH, bấy giờ cơ quan tình báo được gọi là Sở Nghiên-cứu Chính-trị và Xã-hội,
được chỉ đạo bới một trí thức siêu việt, đào tạo tại Pháp là ông Ngô Đình Nhu,
mà cũng không để ý tới. Vì đọc bản tuyên bố lãnh hải kể từ đất liền, là 12 hải
lý, đúng theo công ước Liên-hiệp quốc họp tại San Francisco năm 1951, thì có chi
bận tâm?
Vì sao một người tinh minh, mẫn cán như ông Ngô Đình Nhu mà
cũng bị sơ sót?
Bản tuyên bố chỉ đọc trên hệ thống truyền thanh của
Trung-quốc, rồi cũng được các báo Trung-quốc đăng lại, mà không có bản đồ đính
kèm. Cả thế giới (kể cả Hoa-kỳ, Trung Hoa Dân Quốc, VNCH) cứ nhìn trên bản đồ
Trung-quốc cũng như vùng Nam-hải phân định lãnh hải từ 1887 mà cho rằng: theo
Quốc-tế công pháp thì lãnh hải hầu hết các nước đều gồm 12 hải lý, kể từ thềm
lục địa. Vụ Trung-quốc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của họ là một sự bình thường.
Cái tưởng lầm tai hại đó cho đến nay (11-2001), những người chống đối vụ nhường
đất cho Trung-quốc ở trong nội địa Việt-Nam, cũng như hải ngoại chỉ kết tội vu
vơ, không rõ ràng, không chứng cớ vì nguyên do không bản đồ này.
Do kết quả không có bản đồ đính kèm của Trung-quốc tuyên bố
lãnh hải của họ (gần như trọn vẹn vùng biển Nam-hải, đính kèm), Hoa-kỳ cũng như
thế giới không biết (hay không công nhận), nên suốt thời gian 1958-2001:
- Hạm đội 7 của Hoa-kỳ tuần hành trong vùng lãnh hải tuyên
bố này, đầy đe dọa Trung-quốc, mà Trung-quốc vẫn ngậm bồ hòn.
- Chiến hạm của Pháp, Đức, Ý cũng như một số nước Úc, Âu
trong thời gian 1975-1980 vẫn tuần hành, hộ tống những con tầu vớt người Việt
trốn chạy trong vùng, mà Trung-quốc đành im lặng.
Hôm nay tôi cần phải trình bày trước các vị và làm sáng tỏ
nội vụ.
Kính thưa Quý-vị,
3.2. Những bí ẩn.
Cái bí ẩn đó không có gì lạ cả, rất rõ ràng, rất chi tiết.
- Về phía các nhà nghiên-cứu Âu-Mỹ, ACTBD không có bản đồ
đính kèm bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung-quốc, họ cứ nhìn vào bản đồ đã
phân định từ 1887, giữa Pháp và triều Thanh. Họ cũng cứ nhìn bản đồ của các
nước vùng Nam-hải, của Trung-quốc, của Trung-hoa Dân-quốc cũ, rồi cho rằng
lãnh hải 12 hải lý thì đúng công ước quốc tế.
Nhưng nếu họ có bản đồ về lãnh thổ đính kèm bản tuyên bố thì
họ sẽ toát mồ hôi ra. Vì bản đồ này bao gồm toàn bộ các đảo trong vịnh Bắc-Việt,
toàn bộ các đảo ở biển Nam-hải như Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa). Như
vậy nếu tính lãnh hải 12 hải lý, tính từ các đảo này thì:
-
Lãnh hải Trung-quốc ở biển Nam-hải, phía Tây sẽ sát tới bờ
biển suốt miền Trung, Bắc Việt-Nam.
-
Phía Đông sát tới lục địa Phi-luật-tân, Brunei,
-
Phía Nam sát tới Indonésia, Mã-lai.
Trở lại với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh, bộ Chính-trị đảng Lao-động
(Cộng-sản) Việt-Nam và chính phủ VNDCCH hồi 1958, khi các vị ấy có bản tuyên bố
lãnh hải của Trung-quốc, thìï cũng có bản đồ chi tiết. Nhưng các vị ấy gửi thư
chấp nhận bản tuyên bố đó thì có nghĩa rằng:
Họ đồng ý nhường cho Trung-quốc toàn bộ:
-
Các đảo của Việt-Nam trên biển Nam-hải.
-
Toàn bộ lãnh hải Việt-Nam cách các đảo đó 12 hải lý, nghĩa là
toàn bộ biển Nam-hải.

Bản
đồ tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Trung-quốc ngày 4-9-1958.
Theo bản đồ này thì lãnh hải của họ chiếm hết biển Nam-hải, cách Phan-thiết,
Quảng-Nam Mã-lai, Phi-luật-tân có 50 hải lý. Quyết định này được
đảng Cộng-sản VN tán thành.
Kính thưa Quý-vị,
3.3 - Bí ẩn vụ Trung-quốc chiếm Hoàng-sa (Tây-sa)
Từ trước đến giờ, có nhiều vị hiện
diện hôm nay từng đặt câu hỏi với tôi rằng:
-
Tại sao năm 1974, thình lình
Trung-quốc đem quân đánh quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) từ VNCH. Trận chiến diễn
ra ngắn ngủi, phía Trung-quốc bị thiệt hại gấp ba VNCH (về nhân mạng, về chiến
hạm, tài liệu này tôi có từ phía Trung-quốc). Nhưng VNCH vì quân ít, vũ khí
chỉ có đại bác, chiến hạm nhỏ. Trong khi Trung-quốc có hỏa tiễn địa-địa, chiến
hạm lớn đông gấp bội VNCH. VNCH lại đang có nội chiến, phải đương đầu với quân
đội VNDCCH, vì vậy VNCH phải bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa. Bấy giờ Hoa-kỳ
với VNCH có hiệp ước hỗ tương an ninh, Hoa-kỳ đang tham chiến tại Việt-Nam,
hạm đội 7 hùng hậu đang tuần hành gần vùng giao chiến. Tại sao Hoa-kỳ không
can thiệp, không lên tiếng bênh vực VNCH? Ngay việc thủy thủ VN, tầu bị
chìm, mà hạm đội 7 cũng không vớt theo luật hàng hải Quốc-tế.
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 4,
- Xin Gs cho biết trong trận hải chiến này,
phía Trung-quốc, VNCH, bên nào nổ súng trước?
Gs TĐS,
- Thưa VNCH. Hải-quân VNCH rất thiện chiến,
tác xạ rất chính xác, các sĩ quan đều được huấn luyện theo tiêu chuẩn Âu-Mỹ,
thêm kinh nghiệm VN. Ngay loạt đạn đầu tiên khiến 4 hạm trưởng Trung-quốc tử
trận.
Tôi xin trở lại đầu đề:
Vì:
Trong-cuộc mật đàm giữa Hoa-kỳ (Kissinger) và
Trung-quốc (Mao Trạch Đông). Phía Trung-quốc trao cho ông Kissinger bản tuyên bố
lãnh hải 4-9-1958 cùng bản đồ. Ông Kissinger đã công nhận bản tuyên bố đó. Cho
nên ông Kissinger vừa rời Trung-quốc hai ngày, thì ngày 11 tháng 1 năm 1974,
Trung-quốc tuyên bố hai quần đảo Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa) là của
Trung-quốc, rồi Trung-quốc đem hạm đội xuống Hoàng-sa. Bấy giờ Hoàng-sa do VNCH
trấn đóng.
Vì:
Văn thư của ông Phạm Văn-Đồng công nhận quần đảo này là
của Trung-quốc. Trung-quốc chiếm Hoàng-sa chỉ là việc chiếm lại lãnh thổ được
văn thư 14-9-1958 công nhận. Nghĩa là Trung-quốc chiếm lại lãnh thổ đã bị VNCH
xâm lăng 16 năm.
Ngắt đoạn 4,
Cử tọa hỏi, câu hỏi 5, cấm phổ biến.
Về nguồn gốc tài liệu cuộc mật đàm giữa Chủ-tịch
Mao Trạch Đông và Cố-vấn Kissinger. Gs Trần trình bày chi tiết. Toàn bộ cử tọa
chấp nhận; nhưng chúng tôi bị cấm không được phổ biến.
Sau khi Gs Trần trình bầy, một trong ba vị chủ tọa
phát biểu:
Tôi xin bổ túc những gì Gs Trần lướt qua. Bấy giờ
(1974) là thời điểm chiến tranh Đông-dương đang diễn ra cực kỳ sôi động, mà tình
hình giữa Liên-sô với Trung-quốc cũng căng thẳng cực kỳ. Qua những cuộc mật đàm
giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông với Cố-vấn Kissinger; Trung-quốc, Hoa-kỳ đã đi đến
những thỏa thuận quan trọng. Rồi Tổng-thống Richard Nixon thăm Trung-quốc.
Chúng ta đều biết sự hiện diện, của Hoa-kỳ tại
Đông-dương là ngăn chặn hai mũi dùi Cộng-sản từ Afghanistan, Đông-dương nối với
nhau. Bây giờ Hoa-kỳ biết chắc Trung-quốc, Liên-sô không thể hàn gắn lại, khối
Cộng bị vỡ làm nhiều mảnh. Vì vậy sự hiện diện của Hoa-kỳ trở thành vô ích, vừa
tốn tiền, vừa tốn máu. Cho nên họ muốn rút ra khỏi Đông-dương, dùng Đông-dương
làm bình xăng tưới vào ngọn lửa đang thiêu đốt căn nhà ngoại giao Trung-Sô.
Chìa khóa của Đông-dương là Việt-Nam. Mà tại
Việt-Nam, mọi quyết định do Bộ Chính-trị. Chủ-tịch Hồ Chí Minh chết 5 năm rồi,
vấn đề tranh quyền đã ngã ngũ, phe chạy theo Liên-sô Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thắng
thế. Trung-quốc biết rất rõ. Suốt bao năm Trung-quốc cưu mang cho Bắc VN, nay
bỗng dưng Trung-quốc mất hết, chỉ còn tay trắng ư? Trung-quốc phải kiềm chế Bắc
VN. Thế nhưng Trung-quốc muốn kiềm chế mà không được. Mao tìm cách nắm Cambodge
mà bấy giờ Cambodge còn nằm trong tay Bắc VN. Vì vậy Trung-quốc muốn tìm cách
dùng Nam VN (VNCH) làm bức tường cản Bắc Việt-Nam (VNDCCH). Trung-quốc tìm cách
gần Nam VN bằng hai ngả:
-
Ngả thứ nhất: Mật sứ của Trung-quốc
tại Londre gặp Đại-sứ Nam VN (VNCH) ngỏ ý cho biết Hoa-kỳ đang muốn trao VNCH
cho Bắc VN. Nếu VNCH muốn, Trung-quốc sẽ giúp như sau: Mặt Bắc, chặn con
đường tiếp tế từ đường bộ Liên-sô qua lãnh thổ Trung-quốc. Trung-quốc đem đại
quân ép Bắc biên. Mặt Nam tiếp tế vũ khí cho VNCH. Như vậy bắt buộc Bắc VN
phải rút quân về.
-
Ngả thứ nhì, Trung-quốc qua mấy nhân
vật trí thức VN trong Phong Trào Liên Bang Đông Nam Á (hội tư luật 1901) tại
Paris, trực tiếp nói cho Tổng-thống, và Bộ Ngoại-giao VNCH biết rằng: Việc
Hồng-quân tiến xuống Trường-sa chỉ là cái cớ để Trung-quốc với VNCH ngồi vào
bàn hội nghị. Nhưng không rõ VNCH quan niệm ra sao, mà lại khai hỏa trước.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 6,
- Hồi đầu năm 1974, tôi có đọc trên một tờ báo
Anh-ngữ xuất bản tại Hương-cảng tường thuật về trận đánh giữa VN (VNCH) và
Trung-quốc ngày 19-1-1974 trong vùng quần đảo Hoàng-sa. Giáo-sư có thể cho
biết: Lực lượng tham chiến của hai bên ra sao? (Người đặt câu hỏi nguyên là
Đô-đốc)
Gs TĐS,
- Thưa Ngài tôi xin chiếu lên màn ảnh để Ngài
thấy.
Về phía VNCH,
1, Lực lượng tham chiến: 4 chiến
hạm
-
Khu trục hạm Trần Khánh Dư, ký
số HQ4, hạm trưởng là Trung-tá Vũ Hữu San.
-
Tuần dương hạm Trần Bình Trọng,
ký số HQ5, hạm trưởng là Trung-tá Phạm Trọng Quỳnh.
-
Hộ tống hạm Nhật-tảo, ký số 10,
hạm trưởng là Thiếu-tá Ngụy Văn Thà. Khi chiến hạm hỏng máy, bị chìm,
trong khi tất cả thủy thủ đoàn xuống xuồng chạy, thì ông cương quyết ở
lại, chết với tầu của mình. Tuẫn quốc.
-
Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt,
ký số HQ16, hạm trưởng là Trung-tá Lê Văn Thự.
2, Lực lượng trừ bị,
-
Tuần dương hạm Trần Quốc Toản,
ký số HQ6,
-
Hộ tống hạm Chí-linh, ký số HQ11
-
Không quân: Phi -đoàn F5-A37.
Nhưng
lực lượng trừ bị Hải-quân ở quá xa chưa kịp can thiệp thì trận chiến đã
kết thúc. Không quân thuộc Quân-khu I, không can thiệp. Vì vậy sau trận
đánh, Tư-lệnh Hải-quân ra lệnh cho các sĩ quan tham dự, không thuyết trình
cho Tư lệnh quân khu I là tướng Ngô Quang Trưởng.
Về
phía Trung-quốc,
1, Lực lượng tham chiến:
14 chiến hạm
-
Hộ tống hạm Kronstadt, ký số
271, hạm trưởng là Đại-tá Vương Kỳ Uy, tử thương.
-
Hộ tống hạm Kronstadt, ký số
274, hạm trưởng là Đại-tá Quan Đức, tử thương. Đây là soái hạm của chiến
dịch. Tư lệnh mặt trận là Đô-đốc Phương Quang Kinh, Tư-lệnh phó hạm đội
Nam-hải của Trung-quốc với bộ tham mưu đi trên chiến hạm này. Khoảng
giữa trận chiến, ông cùng bộ tham mưu tử thương (1 Đô-đốc, 4 Đại-tá, 6
Trung-tá, 2 Thiếu-tá, và 7 sĩ quan cấp úy).
-
Trục lôi hạm, ký số 389, hạm
trưởng là Trung-tá Triệu Quát, tử thương.
-
Trục lôi hạm, ký số 396, hạm
trưởng là Đại-tá Diệp Mạnh Hải, tử thương.
-
Phi tiễn đỉnh Komar 133, trang
bị hỏa tiễn địa-địa Styx hạm trưởng là Thiếu-tá Tôn Quân Anh,
-
Phi tiễn đỉnh Komar 137, trang
bị hỏa tiễn đĩa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Mạc Quang Đại,
-
Phi tiễn đỉnh Komar 139, trang
bị hỏa tiễn địa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Tạ Quỳ,
-
Phi tiễn đỉnh Komar 145, trang
bị hỏa tiễn địa-địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Ngụy Như.
-
6 Hải vận hạm chở quân.
2, Lực lượng trừ bị,
Do chính Đô-đốc Tư-lệnh hạm đội
Nam-hải chỉ huy. Chúng tôi không biết tên ông.
|
Cử tọa hỏi, câu hỏi 7,
- Tổn thất 2 bên ra sao? (Vẫn vị cựu Đô-đốc
trên)
Gs. TĐS,
- Xin mời ngài xem bảng so sánh, tôi chiếu
lên.
Về phía VNCH,
-
3 chiến hạm bị thương (HQ 4-5-16 bị thương nhẹ,
rút về Đà-nẵng, sau khi sửa chữa, lại hoạt động như cũ.)
-
HQ10 bị chìm.
-
Một hạm trưởng tử thương.
Về phía Trung-quốc,
-
Tư lệnh mặt trận, bộ tham mưu (1 Đô-đốc, 4
Đại-tá, 6 Trung-tá, 2 Thiếu-tá, và 7 sĩ quan cấp úy) và 4 hạm trưởng tử
thương,
-
Hộ tống hạm 274 bị chìm.
-
Hộ tống hạm 271, hai trục lôi hạm 389-396 bị
hư hại nặng phải ủi bãi, sau đó phải phá hủy.
-
4 ngư thuyền chở quân bị chìm.
|
Cử tọa hỏi, câu hỏi 8,
Cấm phổ biến: Nội dung về nguồn gốc tài liệu tổn
thất về phía Trung-quốc.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 9,
- Tôi nghe Hoa-kỳ trang bị cho VN (VNCH) những
vũ khí, cũng như chiến hạm tối tân nhất. Trong khi Giáo-sư chiếu hình 4 chiến
hạm tham chiến đều thuộc loại hạ thủy vào thập niên 1940, quá cũ kỹ. Vũ khí
cũng vậy. Tại sao VN (VNCH) không đem những chiến hạm, vũ khí tối tân ra tham
chiến? (Người đặt câu hỏi nguyên là kỹ sư hàng hải).
Gs TĐS,
- Thưa quả đúng như Ngài nhận xét. Tất cả
chiến hạm Hoa-kỳ viện trợ cho VNCH đều thuộc loại phế thải. Thay vì Hoa-kỳ phá
hủy, họ tân trang lại rồi trao cho VN. Bốn chiến hạm tham dự trận đánh đều là
những chiến hạm tốt nhất mà VN nhận được. HQ4 hạ thủy năm 1943. (Cử tọa bật
cười). HQ5 hạ thủy năm 1944. HQ10 hạ thủy năm 1942. HQ 16 hạ thủy năm 1942.
Còn vũ khí, cũng có chiến hạm trang bị loại đại bác bắn liên thanh. Nhưng khi
trao cho VN thì Hoa-kỳ tháo đi. Dường như Hoa-kỳ đoán trước có cuộc hải chiến
này, nên một chiến hạm trang bị loại đại bác trên, tuy đã trao cho VNCH, nhưng
bị tháo đi trước đó mấy tháng. Bằng không phía Trung-quốc bị thiệt hại còn
nặng hơn nhiều.
Quý vị có biết không? Hộ tống hạm ký số HQ10,
giữa trận đánh, máy bị hỏng, do cũ quá chứ không phải bị trúng đạn, vì vậy
không di chuyển được, làm bia lĩnh đạn, sau đó bị chìm.
Cử tọa
hỏi, câu hỏi 10,
- Trong
quá khứ, giữa VN với Trung-quốc đã xẩy ra những trận thủy chiến nào?
Kết quả ra sao? (Người hỏi nguyên là giáo sư sử Đông-Á)
Gs TĐS,
-
Thưa Ngài trong lịch sử 5000 năm của Hoa-Việt, chiến tranh
liên miên. Về bộ chiến, kị chiến thì cả hai bên khi khi thắng khi bại. Duy
thủy chiến, bao giờ Việt cũng thắng.
Cử tọa hỏi câu hỏi 11,
- Xin cho biết những trận nào?
Gs TĐS,
- Trận cổ nhất vào năm 42 sau Tây-lịch. Chiến địa xẩy ra
ngoài biển Đông. Đô-đốc Trung-quốc là Đoàn Chí. Đô-đốc Việt là Trần Quốc, một
nữ tướng. (Cử tọa ồ lên). Kết quả hạm đội Trung-quốc bị đánh chìm hết. Đoàn
Chí bị giết.
- Hồi đó người Việt theo chế độ mẫu hệ ư?
- Thưa không. Nhưng vị Hoàng-đế cai trị là một phụ nữ. Trong
suốt năm nghìn năm lịch sử, đời nào VN cũng có những nữ tướng kiệt hiệt.
- Hiện có còn chứng tích nào về vị nữ Đô-đốc này không?
- Nếu Ngài du lịch VN, xin tới Hà-nội, thuê xe, bảo tài xế đưa
đến làng Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm là nơi có đền thờ bà. Tôi xin
chiếu vidéo về đền thờ này. (chiếu vidéo 5 phút).
- Thưa Ngài trận thứ nhì do Vua Ngô
(938), trận thứ ba do vua Lê (981), trận thứ tư do Hưng Đạo vương (1288). Cả
ba trận sau đều diễn ra trên sông Bạch-đằng, Trung-quốc đều bị bại. Trận 1288
là trận khủng khiếp nhất, bên Trung-quốc do vua Mông-cổ là Hốt Tất Liệt chỉ
đạo. Kể từ đó cho đến năm 1974, mới có trận Hoàng-sa.

Đền thờ
công chúa Gia-hưng Trần Quốc, đại đô đốc thời Lĩnh-Nam
(vua Trưng), tại làng Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm, Hà-nội.
Bốn chữ đại tự trên là VẠN CỔ ANH PHONG. Có 3 câu đối ở mặt tiền,
câu thứ 2 nói lên huân nghiệp của ngài:
Tô khấu tước bình trực bả quần thoa đương kiếm kích,
Trưng vương dực tải hảo tương cân quắc hộ sơn hà.
(Bình giặc Tô
Định, đem quần thoa, chống với kiếm kích.
Phò Trưng vương, đem khăn yếm giữ non sông)

Đền Kiếp-bạc, thờ Hưng Đạo
vương. Bốn chữ đại tự trên là:
DỮ THIÊN VÔ CỰC. Bốn chữ dưới là TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ.
Cử tọa
hỏi, câu hỏi thứ 12,
- Xin cho biết lực lượng hải
quân Trung-quốc và Việt-Nam hiện giờ?
Gs TĐS,
- Trình bày chi tiết, cử tọa
chấp nhận. Nhưng chúng tôi bị cấm không được phổ biến.
Tôi xin trở lại với bài điều
trần:
- Cũng
có vị hỏi tôi rằng: Tại quần đảo Trường-sa (Nam-sa) hiện có quân của Trung-hoa
Dân-quốc (Đài-loan), Phi-luật-tân, Mã-lai, Việt-Nam. Thế sao hải quân
Trung-quốc luôn khai hỏa vào hải quân Việt-Nam. Quan trọng nhất là trận
chiến 14 tháng 3 năm 1988. Việt-Nam chỉ phản đối lấy lệ?
Nay tôi xin thưa:
Do văn thư của
ông Phạm Văn-Đồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc.
Lập luận phía Trung-quốc là: Thủ-tướng Phạm
Văn-Đồng đã công nhận vùng này là lãnh hải Trung-quốc, tại sao quân đội Việt-Nam
còn hiện diện tại đây? Như thế là Việt-Nam xâm phạm lãnh thổ Trung-quốc. Quân
đội Trung-quốc phải đánh đuổi quân xâm lăng, bảo vệ đất nước là lẽ thường. Quân
đội Đài-loan đóng tại đây, mà Trung-quốc không tấn công vì quân Đài-loan thì
cũng là quân đội Trung-quốc đóng trên lãnh thổ Trung-quốc. Còn Phi, Mã-lai với
Trung-quốc đang tranh chấp trên quần đảo này chưa ngã ngũ; thì quân đội của họ
hiện diện là lẽ thường. Trung-quốc không thể tấn công họ, vì như vậy là
Trung-quốc ỷ lớn hiếp nhỏ.
Đối với vụ việc tranh chấp Trung-quốc, Việt-Nam trên đảo Trường-sa (Nam-sa)
đã giải quyết bằng văn thư của Việt-Nam ngày 14-9-1958. Chính vì lý do này mà
Trung-quốc chỉ chấp nhận đàm phán về vùng đảo với từng nước, mà không chịu đàm
phán chung với tất cả các bên liên hệ. Có nghĩa họ gạt Việt-Nam ra ngoài, vì
Việt-Nam đã công nhận các đảo này là của Trung-quốc.
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 13,
Gs TĐS,
Về phía Trung-quốc dường như không có ai tử thương.
Cũng không có chiến hạm nào bị chìm. Về phía VN, thì:
-
1 Chiến hạm Thượng-hải do Trung-quốc viện trợ cho
trước đây, bị chìm.
-
1 Tuần dương hạm của VNCH để lại, bị chìm.
-
1 Một hải vận hạm do Nga-sô viện trợ bị chìm.
-
Nhân mạng khoảng trên 300 chết.
Kính thưa Quý-vị,
tôi xin trở lại phần điều trần.
3.4 - Về hoàn cảnh Mạc Ðăng Ðung năm 1540
Ta có thể hiểu tại sao giặc Mạc lại làm công việc táng tận lương tâm, ô danh bậc nhất cổ kim trong lịch sử tộc Việt ấy. Vì:
-
Bấy giờ tuy Dung và con cháu đang cai trị
Đại-Việt. Nhưng tại Thanh-hóa con cháu nhà Lê đã thiết lập triều đình mới,
đang tiến quân về Thăng-long.
-
Phía Bắc bị 22 vạn quân Minh dàn ra định tràn
xuống đánh. Vì tính mạng bản thân và gia đình, họ hàng bị đe dọa, nên Mạc
Đăng-Dung phải đầu hàng Minh triều, rồi cắt đất dâng cho Minh.
3.5 - Về hoàn cảnh đảng Cộng-sản Việt-Nam năm 1958, và chính phủ VNDCCH.
Tất cả những vị trong bộ Chính-trị đảng Cộng-sản, trong Chính-phủ đều biết rằng:
-
Kể từ năm 1540, sau khi dâng đất cho Trung-quốc,
giặc Mạc Đăng-Dung bị lịch sử Việt-Nam kết tội, bị toàn dân nguyền rủa, đến
bấy giờ trải 418 năm, chính họ cũng nguyền rủa bọn Mạc.
-
Giữa VNDCCH và Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH), cả hai
bên đều đang lo củng cố xây dựng lại vùng đất của mình sau chiến tranh
(1945-1954). Cả hai bên cùng chưa chính thức gây hấn với nhau. VNDCCH không có
ngoại thù.
-
Trung-quốc không có chiến tranh với VNCDCH. Không
có áp lực ngoại xâm.
-
Năm 1958, là lúc thịnh thời nhất của Chủ-tịch Hồ
Chí Minh, của Đại-tướng Võ Nguyên Giáp. Thời kỳ này, miền Bắc Việt-Nam vừa
trải qua cuộc Cải cách ruộng đất, 246.578 người hầu hết là phú nông, địa chủ,
trung nông, các cựu đảng viên không phải của đảng Lao-động (Cộng-sản), dân
chúng... bị giết. Nghĩa là toàn miền Bắc dân chúng kinh hoàng, cúi đầu răm rắp
tuân lệnh đảng. Không còn kẻ nội thù,
-
Nhất là lúc ấy VNDCCH đang kéo cao cờ nghĩa đánh
Pháp, chống Mỹ cứu nước. Họ kết tội VNCH là Việt-gian, là Ngụy. Họ phải hết
sức giữ gìn để khỏi mất chính nghĩa.
-
Thế sao đảng Cộng-sản lại làm cái việc thân bại
danh liệt, trở thành tội đồ muôn năm của tộc Việt?
-
Bàn về việc ký thỏa ước với nước ngoài, việc nhận
đất, nhượng đất phải thông qua Quốc-hội. Bấy giờ VNDCCH cũng có Quốc-hội.
Nhưng Quốc-hội không được hỏi đến, không được bàn đến và nhất là không được
thông tri. Quốc dân cũng thế. Tất cả thắc mắc này, tôi xin để Qúy-vị suy đoán
và trả lời.
3.6 - Một câu hỏi được đặt ra:
Vậy thì vì lý do gì mà đảng Cộng-sản Việt-Nam lãnh đạo Chính-phủ
VNDCCH lại nhượng lãnh hải cho Trung-quốc quá dễ dàng? Cho đến nay, tôi cũng không tìm ra lý do thỏa đáng.
Tôi không tìm ra vì:
- Tất cả những vị trong bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam dự buổi hội
quyết định nhượng lãnh hải, đều đã từ trần. Các vị trong nội các Phạm
Văn-Đồng hồi ấy, không biết nay có ai còn sống hay không? Tôi chỉ biết chắc
rằng Đại-tướng Võ Nguyên-Giáp, vừa là Bộ-trưởng bộ Quốc-phòng, vừa là ủy viên
Bộ Chính-trị là còn tại thế. Đại-tướng là người có học thức cao nhất bộ
Chính-trị, từng là giáo sư Sử-học. Bấy giờ lại là lúc uy tín, quyền hành của
Đại-tướng lên tột đỉnh. Vụ ông Phạm Văn-Đồng ký văn kiện này Đại-tướng phải
biết. Nay Đại-tướng đang đi vào những ngày cuối cùng của đời người. Nếu sĩ
khí, dũng khí của Đại-tướng còn, xin Đại-tướng cho quốc dân biết không? (5)
Chú giải, (5)
Sau cuộc cải cách ruộng đất. Thấy dân chúng, cán bộ quá bất mãn. Chủ-tịch Hồ
Chí-Minh sợ có biến, vội đưa vụ sửa sai. Nhận thấy bấy giờ duy có Đại-tướng Võ
Nguyên Giáp là có uy tín nhất, Bộ Chính-trị tập hợp dân chúng, cán bộ, rồi mời
ông ra thay Đảng... xin lỗi.
-
Nếu nói rằng khi ký văn kiện trên, là tự ý
Thủ-tướng Phạm Văn-Đồng thì không thể nào tin được. Vì chính ông Phạm Văn-Đồng
từng than rằng: Ông là một Thủ-tướng lâu năm, nhưng không có quyền hành gì,
ngay cả việc muốn thay một Bộ-trưởng cũng không được. Vậy thì đời nào ông dám
ký văn kiện nhượng đất cho Trung-quốc!
-
Ví thử ông Phạm Văn-Đồng tự ý ký văn kiện
trên, thì năm 1977 văn kiện ấy lộ ra ngoài. Người Việt hải ngoại từng đem đăng
báo, ông Phạm Văn-Đồng hãy còn sống, sao Bộ Chính-trị, Quốc-hội và Chính-phủ
không truy tố ông ra tòa về tội phản quốc? Tội này trong hình luật Việt-Nam
phải xử tử hình. Thế mà ông ấy vẫn ung dung sống thêm bốn chục năm nữa, đầy
quyền hành?
-
Liệu những tài liệu, biên bản về buổi họp này
có nằm tại văn phòng Bộ Chính-trị, văn phòng bộ Ngoại-giao CHXHCNVN không? Các
vị trong Bộ Chính-trị hiện thời có thể công bố cho quốc dân biết không? Nếu
quý vị im lặng, thì muôn nghìn năm sau, lịch sử còn ghi: Đảng Cộng-sản bán
nước, mà không cầu vinh, cũng chẳng cầu tài; chứ không phân biệt rằng Bộ
Chính-trị 1958 bán nước, chứ Bộ Chính-trị 2001 không hề làm việc này.
Chúng tôi xin ngừng lời để Quý-vị thắc mắc, trước khi điều trần sang phần thứ nhì.
Không có câu hỏi nào.
Kính thưa Quý-vị,
Bây giờ tôi xin điều trần sang phần thứ nhì, đó là:
4. VỤ NHƯỢNG LÃNH THỔ MỚI ÐÂY.
-
Hiệp định về
biên giới trên đất liền Việt-Nam, Trung-quốc ngày 30-12-1999, ký tại Hà-nội
giữa bộ trưởng Ngoại-giao Việt-Nam là Nguyễn Mạnh-Cầm với bộ trưởng
Ngoại-giao Trung-quốc là Đường Gia-Truyền.
-
Hiệp định
phân định vịnh Bắc-bộ giữa Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000, ký tại
Bắc-kinh giữa bộ trưởng Ngoại-giao Việt-Nam là Nguyễn Dy Niên và bộ trưởng
Ngoại-giao Trung-quốc là Đường Gia Truyền, dưới sự chứng kiến của Chủ-tịch
Việt-Nam Trần Đức Lương và Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân.
4.1 - Ai chịu trách nhiệm về hai hiệp định.
Hai hiệp định này đều ký trong thời gian 1999-2000. Vào thời kỳ này tại Việt-Nam thì:
- Ông Lê Khả-Phiêu làm Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản ViệtNam,
- Ông Trần Ðức-Lương làm Chủ-tịch nhà nước,
- Ông Nông Ðức-Mạnh làm Chủ-tịch Quốc-hội,
- Ông Phan Văn-Khải làm Thủ-tướng.
- Ông Nguyễn Mạnh Cầm làm Bộ trương Ngoại-giao.
Ai chịu trách nhiệm khi ký hai hiệp định trên? Cá
nhân thì tôi không biết, nhưng có một điều tập thể thì ai cũng khẳng định là Bộ
Chính-trị của đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Không cần biết người ký là Chủ-tịch Trần Đức-Lương,
Thủ-tướng Phan Văn-Khải hay Bộ-trưởng Ngoại-giao Nguyễn Mạnh-Cầm, Nguyễn Dy
Niên. Tôi xin khẳng định: Ai ký cũng chỉ là người tuân lệnh Bộ Chính-trị
đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Những người quyết định là ai?
Ông Phan Văn-Khải, Nguyễn Mạnh-Cầm ư? Hai ông này
không có quyền, dù có quyền các ông ấy cũng không dám quyết định. Ông Lê
Khả-Phiêu quá yếu, không thể quyết định một mình. Ông Trần Đức-Lương, Nông
Đức-Mạnh càng không có quyền gì.
Vì vậy tôi mới quyết đoán rằng vụ này do Bộ
Chính-tri đảng Cộng-sản chủ trương. Hiện tất cả các ông trong Bộ Chính-trị thời
Lê Khả-Phiêu vẫn còn sống, rất khỏe mạnh. Khi quyết định nhượng đất, biển cho
Trung-quốc các ông ấy đều biết rất rõ rằng:
-
Tinh thần dân chúng bây giờ không phải như dân
chúng hồi 1540. Trình độ dân chủ, phương tiện thông tin của đảng viên, của dân
chúng vượt xa hồi 1958. Uy tín của Tổng Bí-thư Lê Khả-Phiêu không thể so sánh
với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh năm 1958. Mỗi vị trong Bộ Chính-trị bây giờ là một
mảng, chứ không thể là một khối như Bộ Chính-trị hồi 1958. Các vị trong Bộ
Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu điều biết trước rằng: Ký hiệp ước nhượng lãnh thổ
trong lúc này không thể bịt miệng, dấu diếm đảng viên cũng như dân chúng. Thế
nhưng các ông ấy vẫn làm! Vì vậy phải có nguyên do gì trọng đại lắm. Liệu các
ông có thể công bố cho quốc dân biết không?
Đến đây một cử tọa nói bâng quơ, câu hỏi 14
- Không lẽ trong Bộ Chính-trị, mà tìm chẳng ra
một người yêu nước ư?
Gs TĐS đáp:
- Tôi tin rằng có rất nhiều người đầy tâm huyết.
Song họ không thể bơi ngược dòng thác đổ. Nếu như ở Tây-phương, người nào
không đồng ý, có thể từ chức. Nhưng ở các nước Cộng-sản thái độ này bị coi là
phản động, tính mệnh khó toàn. Chính những vị này đã tiết lộ tin tức vụ nhượng
đất ra ngoài.
Kể từ khi ký, dân chúng, đảng viên không được
biết nội dung Hiệp-ước nói gì.
Mãi tới tháng 2-2001, Thứ-trưởng Ngoại-giao Lê
Công-Phụng, người trực tiếp vụ này mới công bố trên Tạp chí Cộng-sản, Quý-vị
có thể tìm thấy bài này trên Internet.
Ghi chú (5) của IFA, dành cho
bản Việt-Ngữ
Sau khi bài điều trần của chúng tôi bị tiết lộ, báo chí, Internet bình luận sôi
sục, thì hai bài này bị xóa bỏ).
-
Thời gian ấy (1999-2000) đảng Cộng-sản lấn át
Chủ-tịch Nhà-nước, cũng như Thủ-tướng nhất. Đến nỗi Chánh-văn phòng Thủ-tướng
chỉ vì nói một câu không mấy lịch sự với người đàn bà có thế lực trong đảng,
mà bị bắt giam không lý do, Thủ-tướng không thể can thiệp cho ông ta tại
ngoại.
-
Quyền gần như nằm trong tay ba ông Cố-vấn là cựu
Tổng Bí-thư Đỗ Mười, cựu Chủ-tịch nhà nước Lê Đức-Anh và cựu Thủ-tướng Võ
Văn-Kiệt. Ba ông này như ba Thái-thượng hoàng thời phong kiến. Tuy mang danh
Cố-vấn, nhưng ba ông vẫn còn uy quyền tuyệt đối. Chắc Quý-vị còn nhớ bản điều
trần của tôi vào tháng 9-1997, về vụ Tổng-bí thư Đỗ Mười và Thủ-tướng Võ Văn
Kiệt mật đàm với Chủ-tịch Giang Trạch Dân. (Xin xem phụ bản 3).
-
Cũng trong thời gian ấy, cả thế giới (trừ
Trung-quốc) đều có chính sách ngoại giao rất đẹp với Việt-Nam: Hoa-kỳ
(Tổng-thống Bill Clinton), Liên-Âu, các nước ASEAN đang theo đuổi chính sách
ngoại giao rất mềm dẻo với Việt-Nam. Nhất là Tổng-thống Clinton ký sắc lệnh bỏ
cấm vận Việt-Nam, mở cửa cho sinh viên Việt-Nam sang du học Hoa-kỳ, mở cửa cho
hàng Việt-Nam được nhập vào Hoa-kỳ. Nói tóm lại thời gian từ nửa năm 1999 cho
đến cuối năm 2000, Việt-Nam không bị một áp lực quốc tế nguy hiểm nào, đến độ
phải nhượng đất, nhượng biển cho Trung-quốc để được viện trợ vũ khí, để được
che chở.
-
Cũng thời gian trên, Trung-quốc, Việt-Nam không
có tranh chấp lãnh thổ, không có đụng chạm biên giới, không có căng thẳng
chính trị, không có chiến tranh.
Vậy vì lý do nào mà các ông ấy cắt đất, cắt biển cho Trung-quốc?
4.2 - Chi tiết vụ cắt đất.
Vụ cắt đất ký ngày 30-12-1999, thì tôi được biết tin chi tiết, do hai ký giả
Trung-quốc là bạn với tôi thông báo vào ngày 9-1-2000. Nghĩa là 10 ngày sau.
Nhưng mãi đến ngày 14-2-2000, tôi mới có bản hiệp ước bằng cả hai thứ tiếng
Việt, Hoa. Theo tinh thần bản hiệp định thì:
- Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ
không phải 720 như tin lộ ra trong nươc), quan trọng nhất là vùng thuộc hai
tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn.
- Có mấy hiệp định thư (Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là:
- Nhượng vùng Cao-bằng, sát tới hang Pak-bó, nơi Chủ-tịch Hồ Chí Minh ẩn
thân lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng-sản
Việt-Nam. Trước kia nằm rất xa biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát biên
giới.
- Nhượng vùng đất bằng phẳng thuộc tỉnh Lạng-sơn nơi có cửa ải Nam-quan.
(6)
Ghi chú, (6) của IFA.
IFA chúng tôi có nguyên văn hai bản Hiệp-định
này bằng Hoa-văn, Việt-văn. Hiện đảng Cộng-sản cũng như nhà nước VN, giữ kín 2
bản văn này, đến nỗi cấp Bộ-trưởng, Đại-sứ, Ủy-viên Trung-ương đảng bộ cũng
không có, nhiều vị không biết gì cả. Nhiều người Hoa-Việt gửi thư xin hai bản
Hiệp-định này, chúng tôi cũng như Gs. Trần không thể thỏa mãn, vì cho thì vi
phạm tác quyền. Chúng tôi không muốn gây hấn với đảng Cộng-sản của Trung-quốc và
Việt-Nam. Vậy Quý-vị muốn có, xin hỏi tác giả là bộ Chính-trị đảng CS, bộ
Ngoại-giao Trung-quốc cũng như bộ Chính-trị và bộ Ngoại-giao Việt-Nam.
Đây là cuộc điều trần rất vô tư, Gs Trần giữ đúng ngôn từ ngoại giao, không hề
có lời lẽ công kích, hay nhục mạ đối với đảng Cộng-sản và nhà nước Trung-quốc
cũng như Việt-Nam. Mục đích của cuộc điều trần chỉ để thính chúng hiểu uyên
nguyên sự thực mà thôi. Đường lối ngoại giao của Liên-Âu và của chính phủ Pháp
đối, Việt-Nam rất mềm dẻo, chưa từng có hành động hay ý tưởng gây khó khăn cho
nước Pháp thoại này. Chúng tôi (IFA), và Gs. Trần cũng phải tuân hành nghiêm
chỉnh.
Về con số lãnh
thổ
Ngày 1-2-2002, Ngài Lê Công Phụng, Thứ trưởng Ngoại-giao VN, đặc trách vụ việc
đàm phán với Trung-quốc có lên tiếng với báo chí qua cuộc phỏng vấn của nữ ký
giả xinh đẹp Thu-Uyên (trên Web. Vasc Orient,
http://www.Vnn.Vn ) rằng giữa Hoa-Việt có 227 km2 cần giải quyết tranh chấp.
Chúng tôi hiểu là Ngài Lê Công-Phụng muốn nói 227 km2 hiện phải thảo luận. Còn
những vùng mà Trung-quốc đóng quân, được nhượng dần dần từ 1947 đến giờ thì
không tính. Nay hiệp định ký chỉ để hợp thức hóa truyện đã xẩy ra mà thôi. Có lẽ
cách tính này của Ngàii Lê Công-Phụng cao minh hơn, giản dị hơn chúng tôi. Vì
chúng tôi tính theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887 và 1895, cho nên con số của chúng
tôi là 789 km2. Sai biệt tới 562 km2. Khi công bố con số này,
sở Kỹ-thuật của chúng tôi đã phải tính toán chi li, kiểm đi kiểm lại. Cách tính
căn cứ vào ba bản đồ:
-
Ngay khi có bản hiệp định
30-12-1999 Hoa-Việt, sở Kỹ-thuật của chúng tôi đã căn cứ vào bản đồ mới nhất
của Trung-quốc đính kèm Hiệp-định. Xin nói thêm là bản đồ của Trung-quốc,
Việt-Nam(cs), và các nước Cộng-sản theo hệ thống khác. Chúng tôi phải đổi,
thành hệ thống UTMû lệ xích 1/25000 .
-
Lại so sánh với bản đồ của Sở địa
chánh thời Pháp (1900-1955) (service géographique de l'Indohine) đã đổi ra tỷ
lệ xích 1/25000 hệ UTM. Tức là bản đồ theo hiệp ước Pháp-Thanh 1887 và 1895,
sau đó được thi hành nghiêm túc suốt thời gian 1987-1955. Bản đồ này rất đúng,
bằng cớ là trong chiến tranh Đông-dương, quân đội Pháp và Quốc-gia Việt-Nam đã
dùng cho Pháo-binh, Không-quân tác xạ, rất chính xác.
-
Trong chiến tranh 1960-1970, VNCH
có hẳn một Nha Địa-dư Quốc-gia tại Đà-lạt. Cơ quan này căn cứ vào đường phân
ranh của Pháp, rồi sửa đổi những biến đổi do thời gian, do khí hậu, được vệ
tinh Hoa-kỳ chụp không ảnh trao cho để vẽ lại. Hồi trước 1975 quân đội VNCH,
Hoa-kỳ, Đại-hàn, Thái-lan, Úc-đại-lợi, Tân-tây-lan; đã dùng cho Pháo-binh tác
xạ, Không-quân oanh tạc rất chính xác.
Sau khi đo, chúng tôi tìm thấy có
789 Km2 trước kia thuộc lãnh thổ Việt, nay theo hiệp ước 30-12-1999 thuộc
Trung-quốc. Trong khi những bài công kích của đối lập ở trong nội địa VN gửi ra
là 720 km2, sai biệt với con số của chúng tôi là 69 km2. Còn theo Đại-tá
Quân-đội CHXHCNVN Bùi Tín thì con số là 900 km2. Phải hiểu rằng Đại-tá Bùi Tín
là người từng qua lại biên giới Hoa-Việt nhiều lần, ông lại lớn tuổi, không thể
đưa ra con số hàm hồ. Nhưng tại sao lại có sự sai biệt:
-
Con số của Ngài Lê Công-Phụng và
Đại-tá Bùi Tín 673 km2 (227-900).
-
Con số của Ngài Lê Công-Phụng và
đối lập trong nước 493 km2 (227-720).
-
Của chúng Ngài Lê Công Phụng với
chúng tôi (IFA) 562 km2 (227-789).
Chúng tôi xin giải đoán:
-
Về con số của đối lập trong nước,
hẳn họ căn cứ vào bản đồ hiệp định trên bộ như chúng tôi, rồi so sánh với bản
đồ thời Pháp dùng cho học sinh, nhưng họ đo bằng lối ước tính trên giấy, kém
chính xác một chút, bản đồ ấy theo hệ thống UTM, trong khi bản đồ của hiệp
định theo hệ thống CS.
-
Về con số của Đại-tá Bùi Tín chúng
tôi giải đoán: giữa biên giới Hoa-Việt có 5 khu đất 29,300km2, 26,750 km2,
17,400km2, 21,003 km2, 16.547km2, vào thời Nguyễn; Nguyễn-Thanh coi như của
chung, để cho hai bên dân chúng trao đổi hàng hóa (như vùng Andora của
Pháp-Tây Ban Nha, không thuộc nước nào). Sau hiệp ước 1887 và 1895 tình trạng
vẫn không thay đổi. Nhưng trên thực tế, Hoa coi là của Hoa, Việt bảo rằng của
Việt. Trong chiến tranh 1945-1954 cac khu này thuộc Trung-quốc, nhưng trên
pháp lý vẫn là của chung. Nay đảng Cộng-sản VN nhượng cho Trung-quốc, nên
Đai-tá Bùi coi như VN mất đứt khu này.
Về
hang Pakbo

Hình chụp cửa hang Pak-bo. Hồi
chiến tranh Hoa-Việt (1979)
Hồng-quân Trung-quốc đã phá hủy tất cả di vật,
cũng như cửa hang này.
Về hang Pak-bó, sở Kỹ-thuật của chúng
tôi đo, kể từ biên giới cũ, đến cửa hang là: 50.035 m. Nay biên giới mới chỉ còn
cách cửa hang có 1.511 m. Bản tin của Câu-lạc-bộ sinh viên
(http://dungday.tripod.com) công bố ngày 5-2-2002 thì khoảng cách: Cũ là 48.900
m nay là 1.500 m. Hai con số gần với nhau.
Vậy chúng tôi ghi ra đây. Dù sao
thì vấn đề này quan trọng đối với người Việt, người Hoa. Còn đối với IFA chúng
tôi thì sự việc đã xong. Sổ sách đã khép lại. Chúng tôi (IFA) và Gs Trần
Đại-Sỹ không dám có ý tưởng tranh cãi với Ngài Thứ-trưởng Lê Công Phụng. Hơn nữa
chúng tôi không cần, không có thời giờ tranh cãi một vụ việc đã qua với bất cứ
ai. IFA chúng tôi rất thông cảm nỗi khổ tâm của Ngài Lê Công Phụng, vì ngài tuân
lệnh trên mà làm, nếu chống thì e tính mạng khó toàn. Sau khi hai hiệp định ký,
Ngài Lê Công-Phụng được trao cho chức vụ đầy uy quyền là Trưởng-ban Biên-giới.
Độc giả đừng coi thường từ Trưởng-ban. Chức vụ này rất lớn. Bởi với chức vụ này
Ngài Lê ngồi cao hơn các Vụ-trưởng trong bộ Ngoại-giao. Trước kia ban này thuộc
phủ Thủ-tướng, mới đây đưa xuống bộ Ngoại-giao. Từ nay Ngài Lê là người phác
họa, quyết định đường lối về biên giới Việt-Nam, mà không phải trình lại thượng
cấp (Bộ-trưởng) như đã trả lời cuộc phỏng vấn của nữ ký giả Thu-Uyên.
Khi vụ việc nhượng đất-biển bùng nổ,
Ngài Lê Công- Phụng còn trẻ, tuổi đảng thấp, cũng chẳng là Ủy-viên Trung-ương;
chỉ có công lao, thành tích là đảm trách đàm phán với Trung-quốc, nhượng lãnh
hải, lãnh thổ cho Trung-quốc, mà được trao cho chức Trưởng-ban Biên-giới. Không
chừng tương lai được lên làm Bộ-trưởng Ngoại-giao nữa.
Về
thác Bản-giốc

Thác Bản-giốc thuộc tỉnh
Cao-bằng. Suốt năm nghìn năm lịch sử,
thuộc lãnh thổ Việt. Nay cưa đôi, Trung-quốc,
Việt-Nam mỗi nước một nửa.
Thác Bản-giốc, theo Ngài Thứ-trưởng
Lê Công Phụng thì trước hiệp định 30-12-1999, địa danh này chỉ nằm về ranh giới
VN có 1/3, còn 2/3 thuộc Trung-quốc. Nay thì Trung-quốc, Việt-Nam cưa đôi.
Điều này làm chúng tôi hơi ngạc nhiên. Vì suốt thời gian 1887-1955 trong
thời Pháp thuộc, thác này nằm khá xa biên giới Hoa-Việt. Năm 1993, 1995, 1997
chúng tôi có giúp đỡ cho ba công ty nước khoáng châu Âu thăm dò lưu lượng nước,
thăm dò thành phần nước để khai thác thương mại. Các chuyên viên xin visa vào
Việt-Nam:
-
1993 Kỹ-sư J.P. Renault,
-
1995, Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, kỹ sư F.
Puririer,
-
1997 Dược-sĩ Marie Christine Le.
Dưới hình thức du lịch, rồi tới
Bản-giốc. Như vậy rõ ràng trước 1997 thác này còn nằm trên lãnh thổ Việt-Nam.
Chứ nếu nằm trên lãnh thổ Trung-quốc thì phải xin visa vào Quảng-Tây, rồi tới
Bản-giốc! Vả địa danh Bản-giốc đã in sâu vào tiềm thức giới trẻ VN vì họ từng đi
cắm trại, sinh hoạt tại đây. Một số sách Việt-ngữ dành cho tuổi trẻ đã nói nhiều
về thác này. Nay Ngài Thứ-trưởng bảo thác đó nằm trên lãnh thổ Trung-quốc từ
thời Pháp-Thanh, chúng tôi e tuổi trẻ nay thành tuổi nhỡ, tuổi già VN, cũng
không ai chịu. Chúng tôi theo dõi rất kỹ, từ lâu cuộc đàm phán Hoa-Việt về biên
giới, nên rất thông cảm với Ngài Thứ-trưởng.
Chúng tôi cũng xin thưa rằng: sau khi
vụ việc ký hai hiệp định nhượng đất, dư luận người Việt trong và ngoài nước sôi
sục căm hờn, thì Bộ Chính Trị cũng như Chính-phủ Việt-Nam tuyên dương bộ
Ngoại-giao là bộ "Năng động, hữu hiệu toàn diện nhất năm 2001". Như vậy
đủ tỏ rằng bộ Chính-trị hiện thời với bộ Chính-trị thời Lê Khả Phiêu nhất trí
với nhau trong vấn đề nhượng đất, biển.
Thưa Quý-vị,
4.3 - Ảnh hương vụ cắt đất.
4.3.1 - Mất biểu tượng năm nghìn năm của tộc Việt.
Khu Ải Nam-quan này là vùng đất
thiêng, là Thánh-địa trong mấy nghìn năm của người Việt. Bất cứ người Việt nào
từ 6 tuổi trở lên đều biết rằng phía Nam Ải Nam-quan là vùng đất tượng trưng
biên giới phía Bắc, tượng trưng cho lãnh thổ, cho tinh thần tự chủ, cho niềm
niềm tự hào của họ. Đây là vùng đất đi sâu vào lịch-sử, văn-học và tâm tư toàn
thể người Việt.
Trở về quá khứ, trong lần mạn đàm
giữa Chủ-tịch Mao Trạch-Đông và Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Chủ-tịch Mao Trạch-Đông đã
nói:
"Cái tên
Ải Nam-quan, nhắc nhở đến cuộc chiến do bọn phong kiến Hoa, Việt làm xấu tình
hữu nghị nhân dân. Tôi xin đổi thành Mục Nam-quan. Mục là mắt, coi như nhân
dân Trung-quốc luôn hướng mắt nhìn về nhân dân Việt ở phương Nam. Ngược lại
coi như mắt của nhân dân Việt luôn nhìn về Bắc với tình hữu nghị".
Chủ-tịch Hồ
Chí-Minh vui vẻ chấp thuận. Nhưng trên thực tế, chỉ có phía Trung-quốc in trên
bản đồ địa danh Mục Nam-quan mà thôi. Còn phía Việt-Nam trên bản đồ hành chính,
trên báo chí, văn học, vẫn dùng từ cửa Hữu-nghị.
(
Xem tiếp phần III )
| |