Quân Đội Nhân Dân bị đàn áp

Nông Bản Nhân

RFA 10/2/02
 

Nhân tâm vị quốc vong thân cao thượng

Trong cuộc chiến chống Pháp tái chiếm Việt Nam sau đệ nhị thế chiến, bác hai của tôi đã bị mật vụ Pháp thủ tiêu trong chuyến công tác của biệt tổ Việt Minh ở vòng đai Sài Gòn. Theo lời thuật lại của bằng hữu đồng chí tập kết ra Bắc trở về sau này thì bác hai bị mật vụ Pháp bắt trong lúc thi hành nhiệm tại thành phố; bác có mang trong người cờ và mật tín cho nên bị tra tấn dã man rồi thủ tiêu mất xác. Khi nghe hung tin, ông nội tôi lặn lội đi tìm xác con thì bị ‘té xe lửa chết’ mà không biết thân xác ở đâu.  Sau này bà tôi từ vùng Liên Khu 5 vào tìm tông tích chồng có nghe phong phanh là ông nội được bạn bè chôn cất ở chùa Giác Viên (cạnh đầm sen bây giờ); thế là khi vào Sài Gòn gia đình tôi trở thành Phật tử viếng chùa Giác Viên mỗi ngày rằm mặc dầu vẫn chưa tìm được mộ của ông tôi.

Trong nội chiến quốc cộng sau đó, chú bảy của tôi cũng bị tử trận. Chú là lính tác chiến VNCH mất tích trong một cuộc đụng độ dữ dội giữa hai lực lượng quân sự.  Bà nội tôi lặn lội đến tận chiến trường nhưng vẫn không tìm ra được tử thi của thằng con bất hạnh cho nên chỉ biết khóc lóc thảm thiết; sau đó bà trở thành người ăn chay trường cầu mong cho đất nước sớm thanh bình. Sau khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, gia đình bên nội của tôi mất sáu người (ông nội và 5 người con trai); cha tôi là người sống sót duy nhất nhưng cũng bị đày đi tù cải tạo biệt tăm ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn nhiều năm trời. Trong nỗi đau khổ mất mát chia ly đó, nhà tôi được cấp các mảnh bằng gia đình liệt sĩ, tổ quốc tri ân từ cả hai chính phủ cộng sản và quốc gia vì đã hy sinh cống hiến cho đất nước sinh mệnh của chú bác tôi vị quốc vong thân suốt 30 năm qua.

Suy ngẫm lại trong những ngày tháng đầu của tân thiên niên, tôi nghĩ có lẽ đó là số mạng chung của người dân Việt Nam đặc biệt là số mạng của những nông dân bình dị như gia đình nội tôi sinh thành trong vùng tranh đấu triền miên Liên Khu 5, nơi sản xuất ra nhiều vị tướng nhất trong Quân Đội Nhân Dân ngày nay. Bác hai của tôi hôm nay nếu còn sống chắc cũng trở thành một nhân vật quan trọng trong Quân Đội Nhân Dân như các bằng hữu song hành của thời kỳ kháng Pháp. Những người nằm xuống như bác hai tôi cho lý tưởng độc lập tự do trong giai đoạn khó khăn vì phải đối đầu với nanh vuốt thực dân đã lót đường xây dựng Quân Đội Nhân Dân của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (chính quyền dân chủ đầu tiên của Việt Nam) theo tiêu chuẩn của dân (nhân dân gầy dựng), do dân (nhân dân thống lãnh qua những nhà lãnh đạo được dân tính nhiệm) và vì dân (bảo vệ quyền lợi nhân dân).

Người Việt Nam không lấy thắng bại để luận anh hùng cho nên lịch sử Việt Nam có nhiều trang sử thất bại nhưng rất hào hùng từ Bà Trưng, Bà Triệu hy sinh mạng sống chống phong kiến Trung quốc cho đến anh hùng Trần Bình Trọng lấy cái chết để dõng dạc tuyên bố trước sự chiêu dụ của giặc Tàu: ‘Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.’  Có những kẻ chiến thắng đởm lược và thành đạt vẻ vang như Mạc Đăng Dung đã làm cách mạng triều chính ‘cướp’ ngai vàng hay Mạc Đăng Doanh dâng đất cho nhà Minh Trung quốc để được tiếp tục thống trị nhân dân vẫn bị sử sách nguyền rủa. Trong sự thành bại, chính cái tâm của con người là quan trọng nhất bởi vì sự hy sinh phải trong sáng vì quyền lợi của nhân dân - thay vì quyền lợi cá nhân hay đảng phái - thì dân tộc mới khắc ghi tưởng nhớ và trọng vọng. Do đó tôi rất kính trọng bác hai và các bằng hữu kháng chiến - những người tiên phong góp phần xây dựng Quân Đội Nhân Dân - cũng như bộ đội miền Bắc và chiến sĩ miền Nam đã hy sinh vì lý tưởng phục vụ dân tộc trong cái tâm vị quốc vong thân cao thượng. Các chính trị gia của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) hay chính đảng quốc gia hoặc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có thể khoát lên sự hy sinh này những màu sắc chính trị bè phái hay đối nghịch nhưng lý tưởng cao cả vị quốc vong thân của họ không bao giờ có thể bị hoen ố lu mờ bởi vì sự tranh giành bá quyền của đảng phái.
 

Nỗi Nhục của Quân Đội, Mối Nguy của Nhân Dân

Bác hai của tôi và các bằng hữu kháng chiến - những người tiên phong góp phần xây dựng Quân Đội Nhân Dân - đã nằm xuống vì lý tưởng phục vụ dân tộc trong cái tâm vị quốc vong thân cao thượng. May mắn cho họ là đã ra đi trong những giờ phút đẹp nhất của người chiến sĩ kháng Pháp bảo vệ quê hương để có thể mang mãi trong tim hình ảnh hào hùng xã tắc hưng vong thất phu hữu trách bởi vì nếu bây giờ họ còn sống thì có lẽ họ phải cảm thấy hổ thẹn.  Họ chắc chắn sẽ cảm thấy nhục nhã như những bằng hữu khác còn sống sót hôm nay như Trung Tướng Trần Độ, cựu Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Đại Tá Hoàng Minh Chính, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Lịch Sử Quân Sự, Thiếu tá Vũ Khắc Kính, v.v, bởi vì Quân Đội Nhân Dân của đất nước thống nhất với sức mạnh và kinh nghiệm do sự hy sinh của những người như họ gầy dựng lên chưa lên tiếng bảo vệ biên cương quốc gia khi Bắc Kinh nuốt trọn nửa tỉnh và biển cả bao la của Việt Nam vào cuối tháng 12-2001.

Quân Đội Nhân Dân của dân, do dân và vì dân sau thời kỳ kháng Pháp đã bị các chính trị gia đảng CSVN bắt cóc lãnh đạo, cưỡng bức tư tưởng và đàn áp tướng sĩ tàn bạo nhằm bảo vệ quyền lợi của họ - những người làm chính trị theo ý thức hệ bè phái - thay vì quyền lợi của nhân dân.  Nỗi nhục bất lực do đảng CSVN chụp lên đầu Quân Đội Nhân Dân vào ngày 30-12-1999 và bị dấu kín cho đến những ngày cuối của năm 2001 mới được bạch hóa sau khi đảng đã bỏ gần hai năm trời bắt hàng ngũ đảng viên học tập kỹ thuật khống chế sự phản kháng đối với hành động đê hèn dâng đất nhượng biển cho Trung quốc. Hành vi dâng đất nhượng biển của đảng CSVN cho Bắc Kinh đi ngược lại quyền lợi của nhân dân và di huấn Tổ Tiên [như Lý Thường Kiệt đã dõng dạt tuyên bố ‘Nam quốc sơn hà, Nam đế cư’  mà chính đảng sử nâng lên thành tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam] khiến nhân dân mất đi (i) 789 cây số vuông đất dọc theo Cao Bằng, Lạng Sơn tức là khoảng một nửa tỉnh Thái Bình ngoài Bắc hay tỉnh Tiền Giang trong Nam hay 80 lần diện tích Thăng Long bao gồm cả Ải Nam Quan cùng  (ii) 9% diện tích biển cả bao la tại vịnh Bắc bộ với các đảo mang tính cách chiến lược rất gần với thềm lục địa của trung châu Bắc bộ cũng như miền Trung và miền Nam.

Bộ máy tuyên truyền của đảng CSVN đã hết lời ca ngợi quyết định ‘sáng suốt’ của các ủy viên Bộ Chính Trị khi Lê Khả Phiêu đại diện ký nhượng hải thổ cho Bắc Kinh nhưng cố tình dấu nhẹm sự mất mát biên thùy to tát của nhân dân kể cả địa danh Ải Nam Quan. Cùng với một vùng đất rộng lớn bằng nửa tỉnh Thái Bình, Ải Nam Quan đã bị đảng CSVN âm thầm xóa tên trên bản đồ Việt Nam. Ngày trước chính Mao chủ tịch đã công nhận Ải Nam Quan là mốc trụ đánh dấu biên cương của hai quốc gia khi nói với Bác Hồ: ‘Cái tên Ải Nam Quan nhắc nhở đến cuộc chiến do bọn phong kiến Hoa, Việt làm xấu tình hữu nghị nhân dân. Tôi xin đổi thành Mục Nam Quan. Mục là mắt, coi như nhân dân Trung quốc luôn hướng mắt nhìn về nhân dân Việt ở phương Nam. Ngược lại coi như mắt của nhân dân Việt luôn nhìn về Bắc với tình hữu nghị.’  Hà Nội chấp thuận nhưng vẫn tiếp tục dùng danh từ Ải Nam Quan hay Cửa Hữu Nghị; trong khi đó, Bắc Kinh thay đổi danh xưng thành Mục Nam Quan trên bản đồ theo chỉ định của Mao chủ tịch. Nhục thay là hôm nay Trung quốc lại nhận được phần đất này từ tay của các chính trị gia cầm đầu đảng CSVN mà không tốn một viên đạn. Chưa chiến đấu mà đảng CSVN đã cưỡng bức đàn áp Quân Đội Nhân Dân bắt phải đầu hàng!

Về phần vịnh Bắc Việt, các ủy viên Bộ Chính Trị đảng CSVN cố tình chà đạp lên lịch sử của dân tộc khi ký kết Hiệp định phân chia lãnh hải Việt Nam, Trung quốc vào ngày 25-12-2000 để dâng cho Bắc Kinh 47% diện tích vùng biển rộng lớn có kho hải sản quan trọng cũng như mỏ dầu hỏa và hơi đốt. Trong quá trình lịch sử đối kháng Bắc phương, Quảng Đông và Quảng Tây còn bị vua Quang Trung chuẩn bị dấy quân đòi lại từ Thanh triều do đó Bắc Kinh luôn luôn xem vịnh Bắc Bộ là của Việt Nam. Bản đồ địa dư của Trung quốc ghi rõ là hải cảng của vùng đất cực Nam với địa danh Hợp Phố có tên là Bắc Hải.  Hải cảng cực Nam của Trung quốc có tên ‘Bắc Hải’ (cửa biển phía Bắc) bởi vì nó dẫn ra vùng biển thuộc lãnh hải phía Bắc của Việt Nam; nếu Bắc Kinh không công nhận vịnh Bắc Việt của nhân dân Việt Nam thì đã đặt tên cho hải cảng đó là Nam Hải như tên của đảo Hải Nam vì nằm ở cực Nam nước Trung Hoa [điển hình như thành phố Nam Kinh được mang địa danh này là vì nằm ở vùng đất phương Nam khác với Bắc Kinh]. Do đó khi đất nước bị rơi vào vòng nô lệ thực dân Pháp, Ba Lê cấp cho Thanh triều 38% lãnh hải vịnh Bắc Bộ qua Hòa Ước 1887, Bắc Kinh nhanh chóng chấp thuận vì họ biết vùng biển này không thuộc về Trung quốc. Cho đến hôm nay Bắc Kinh vẫn gọi vùng vịnh Bắc Việt (theo Hòa Ước 1887) là vịnh Bắc Bộ mặc dầu nằm ở phía Nam Trung quốc; và điều này chứng tỏ tư duy cẩn trọng của họ về chủ quyền phía Bắc của chúng ta. Nhục thay là hôm nay Trung quốc lại nhận được thêm 9% phần lãnh hải vịnh Bắc Bộ từ tay của các chính trị gia cầm đầu đảng CSVN mà không tốn một chiến thuyền nào. Chưa chiến đấu mà đảng CSVN đã cưỡng bức đàn áp Quân Đội Nhân Dân bắt phải đầu hàng!

Sự im lặng của đảng CSVN về diện tích biên thùy đã dâng hiến cho Trung quốc thể hiện bản chất dối trá nhân dân của hàng ngũ đảng viên lãnh đạo, nhưng chính sự im lặng của đảng CSVN về mối nguy hại cho nền an ninh quốc phòng do việc dâng đất nhượng biển đó gây ra chứng tỏ bản chất phản bội nhân dân của các chính trị gia này. Vấn đề phòng thủ đất nước, đặc biệt là thủ đô Hà Nội hay Thăng Long, là vấn đề quan trọng hàng đầu của dân tộc. Ngày xưa khi vua Lý Thái Tổ cho dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long, ngài nhận xét trong chiếu thiên đô là nơi này ‘ở trung tâm đất nước, có hình thế hiểm yếu như rồng bò hổ phục, bốn phương sum hợp, người và vật nhiều đông, thực là chỗ kinh đô quý nhất của Đế Vương.’  Các triều đại trước còn lo sợ dã tâm của phong kiến Trung Hoa cho nên phải giữ thế thủ nhờ vào rừng núi đất Trường Yên, và do đó phải lấy Hoa Lư làm kinh đô. Dưới tài lãnh đạo của Lý Thái Tổ, dân tộc Việt Nam trở nên hùng cường và mạnh dạn khuếch trương lực lượng quốc phòng để đối đầu với Bắc phương. Một quốc gia hùng cường phải có một kinh đô văn hóa chính trị sầm uất để giữ thể diện cho dân tộc cũng như trình bày với thế giới các điểm ưu việt của giống nòi. Hang hốc núi rừng là nơi của ‘mọi rợ’ yếu ớt; ngược lại, thành quách bao la hùng vĩ ở đồng bằng trù phú là thánh địa của một dân tộc văn hiến và cần được phòng thủ cẩn thận song song với việc bảo vệ biên cương quốc gia.

Nhằm bảo vệ Thăng Long và biên cương phía Bắc Việt Nam, kế hoạch phòng thủ của Quân Đội Nhân Dân đã nhận định là Trung quốc không có khả năng dùng không quân tấn công miền Bắc vì phi lộ quá xa cho không vụ khứ hồi từ các phi trường ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam hay ngay cả Hải Nam. Còn về đường bộ thì Bắc Kinh không có khả năng tiếp vận cho ít nhất 1 triệu quân cần thiết cho cuộc viễn chinh bởi vì chỉ sau 3 ngày tiếp tế với 10 ngàn đợt xe vận chuyển mỗi ngày thì chiến lộ băng ngang biên giới sẽ bị hư hại nhanh chóng, đó là chưa kể đến việc đụng độ các tổ quyết tử của Quân Đội Nhân Dân phá hoại đường dây tiếp vận. Còn về hải lộ thì các quân cảng Bắc Hải, Quảng Châu và Hải Nam của Trung Quốc ở khá xa khó hoàn thành sứ mạng tiếp tế trước những biệt đội quyết tử đường biển của chúng ta.

Như vậy nếu vẫn giữ tình trạng trước ngày đảng CSVN nhượng thêm cho Bắc Kinh 9% diện tích vịnh Bắc bộ với các hải đảo mang tính cách chiến lược rất gần với thềm lục địa của trung châu Bắc bộ cũng như miền Trung và miền Nam thì Trung quốc khó có thể trực tiếp đe dọa nền an ninh Việt Nam. Nhưng sau khi đảng CSVN nhượng thêm lãnh hải cùng các chiến đảo cho Bắc Kinh vào ngày 25-12-2000 thì tình thế chiến cục đã thay đổi hẳn. Trung quốc bây giờ có thể xây dựng các căn cứ quân sự và kho tiếp liệu cần thiết trên các hải đảo gần thềm lục địa Việt Nam để trực tiếp đe dọa không những Hà Nội mà còn cả miền Trung và Nam.

Bản tuyên bố của Trung quốc về chủ quyền toàn vùng Biển Ðông có khoảng 64 xác định quyền phong tỏa biển Ðông Hải bao vây Việt Nam là Trung Quốc nếu muốn có thể bắt buộc Việt Nam hay bất cứ quốc gia nào có chiến thuyền ra vào biển Ðông Hải phải xin phép Bắc Kinh. Trong năm 1992, sự kiện Trung quốc đã chận bắt các tàu chở hàng Việt Nam cho thấy dã tâm bành trướng của Bắc Kinh. Gần đây hơn là vào tháng 2-2001 khi báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bài về đơn vị hành chính Trường Sa của Việt Nam, bộ ngoại giao Trung quốc đã nhanh chóng phản đối: ‘Trung Quốc có chủ quyền toàn vẹn bất khả tranh chấp đối với quần đảo Trường Sa và toàn vùng lãnh hải liên hệ. Bất cứ quốc gia nào có hoạt động gì trên quần đảo này đều xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, đều bất hợp pháp và vô giá trị.’  Thay vì bảo vệ chủ quyền quốc gia trên vùng đảo Trường Sa như bài báo Sài Gòn Giải Phóng, Phát ngôn nhân bộ ngoại giao Việt Nam Phan Thúy Thanh bị đảng CSVN chỉ thị phải hạ thấp tầm quan trọng chủ quyền đất nước bằng lối trả lời phớt lờ: ‘Ðó chỉ là một tờ báo thành phố.’

Bằng hiệp định phân chia lãnh hải Việt-Trung, đảng CSVN rõ ràng đã phản bội nhân dân và đặt sự an nguy của đất nước vào tình thế nguy hiểm bởi vì Bắc Kinh có thể phong tỏa tấn công Việt Nam dễ dàng hơn vạn lần. Hành động cắt đất nhượng biển của đảng CSVN đã chụp lên đầu Quân Đội Nhân Dân nỗi nhục bất lực và gây ra mối nguy hại vô lường cho nhân dân Việt Nam.
 

‘Lúc trẻ đi cứu nước, về già đi bán nước!’

Nhân dân và quân đội được gì khi đảng CSVN dâng đất nhượng biển cho Trung quốc?  Báo chí Trung Quốc tiết lộ mập mờ về lời hứa suông của Bắc Kinh liên quan đến việc tài trợ xây dựng dự án thủy lực, quặng mỏ và giao thương trị giá ‘hàng tỉ mỹ kim.’ Bánh vẻ ‘hàng tỉ mỹ kim’ thật sự quá nhỏ nhặt để phải dâng đất nhượng biển nếu so với số tiền 3 tỉ mỹ kim mà Việt kiều tài trợ hàng năm. Do đó thực chất thì nhân dân Việt Nam mất đi lãnh thổ biên thùy của Tổ Tiên nhưng lại không được hưởng quyền lợi giá trị nào từ phía Trung quốc. Ngay cả vùng đảo Trường Sa, Hoàng Sa cũng vẫn bị Trung cộng tranh đoạt sau khi đảng CSVN đã hèn hạ cắt đất chia biển của dân tộc cho Bắc Kinh mà không dám đặt điều kiện. Không nhận được quyền lợi khả trọng nào mà nhân dân Việt Nam còn lại bị đặt vào trình trạng nguy hiểm vì đảng CSVN đã dâng cho Trung quốc những hải đảo mang tính cách chiến lược rất gần thềm lục địa Việt Nam; sự an ninh của nhân dân từ nay luôn luôn bị đe dọa bởi nguy cơ bành trướng của Bắc Kinh.

Quân Đội Nhân Dân thì chỉ nhận được mối nhục bất lực do sự khinh bỉ của đảng CSVN và Giải Phóng Quân Trung quốc bởi vì chưa phản đối khi có trong tay sức mạnh và kinh nghiệm quân sự khả kính. Chỉ mới hơn 20 năm trước, chính Quân Đội Nhân Dân - chứ không phải các chính trị gia đảng CSVN - đã làm Giải Phóng Quân Trung quốc khiếp đảm trong cuộc chiến biên giới vào cuối thập niên 1970. Rất tiếc là hôm nay khi Trung quốc nuốt gần nửa tỉnh và biển cả bao la của Tổ Tiên không cần mất một viên đạn mà Quân Đội Nhân Dân vẫn câm lặng để bị khinh bỉ là hèn hạ. Quả thật là ‘Nước mất, Dân nguy, Quân khổ nhục.’

Kẻ thủ lợi lớn nhất trong cuộc chia đất nhượng biển này là Trung quốc với dã tâm bành trướng ảnh hưởng khắp Á châu. Sự kiện Bắc Kinh từ chối không bàn đến việc trao trả cho Việt Nam vùng đảo Trường Sa, Hoàng Sa chứng minh đảng CS Trung quốc khinh bỉ đảng CSVN và gián tiếp phỉ báng thái độ im lặng ‘Nước mất, Dân nguy, Quân khổ nhục’ của Quân Đội Nhân Dân. Kẻ thủ lợi thứ hai là nhóm chính trị gia đảng CSVN bán nước cầu vinh. TBT đảng CS Trung Quốc Đặng Tiểu Bình khi còn sống đã đánh giá bè nhóm chính trị gia đảng CSVN là ‘lũ man trá’ quên ân nghĩa trợ giúp của Bắc Kinh trong cuộc chiến 30 năm; chắc chắn lối đánh giá thấp hèn này chưa thay đổi trong tư duy của hàng ngủ lãnh đạo Bắc Kinh. Nhóm chính trị gia đảng CSVN đối với dân tộc Việt Nam và Quân Đội Nhân Dân không chỉ là ‘lũ man trá’ mà còn là thành phần phản bội đặt đất nước vào vòng hiểm nguy khi ký kết bán nước cầu vinh. Đối đầu với bài toán xây dựng đất nước, vì tham nhũng và thiếu khả năng, đảng CSVN đã đẩy đất nước vào ngục tù nghèo đói nhưng lại sợ nhân dân và Quân Đội Nhân Dân trổi dậy cho nên bám chặc vào chiếc phao Bắc Kinh bằng cách dâng đất nhượng biển; và Trung Quốc đã biết lợi dụng cơ hội này để đặt điều kiện như đã thành công đối với đảng CSVN vào đầu thập niên 1970 về vụ tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa (văn thư nhượng đảo và nhượng biển của Phạm Văn Ðồng, ký ngày 14-9-58, gởi Chu Ân Lai ‘.. ghi nhận và tán thành.. quyết định về hải phận của Trung quốc’  trong khi chính quyền VNCH ở Sài Gòn mặc dầu bị xem là ngụy quyền đã dám hải chiến với Bắc Kinh và ra bạch thư xác định chủ quyền Việt Nam trên lãnh hải Hoàng Sa, Trường Sa.)

Ngày xưa khi đối đầu với đế quốc Mông Cổ hùng mạnh chiếm đóng hàng chục quốc gia từ Á sang Ấu, dân tộc Việt Nam nhỏ bé không được quốc tế hậu thuẩn vẫn kiên tâm chiến đấu bảo vệ đất nước. Ba lần giặc Nguyên xâm lấn với lực lượng quân sự khổng lồ chiếm đóng tàn phá cả kinh đô Thăng Long, ba lần Tổ Tiên đã hy sinh vị quốc vong thân giữ vững biên cương quốc gia.  Đức Trần Hưng Đạo phân tích là chiến thắng vẻ vang của dân tộc phản ảnh sự đoàn kết bảo bọc lẫn nhau của dân quân: ‘.. giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là trời giúp ta mới được thế.’   Vậy mà nhục thay là hôm nay chưa chiến đấu mà đảng CSVN đã cưỡng bức đàn áp Quân Đội Nhân Dân bắt phải đầu hàng và bắt nhân dân Việt Nam phải hiến dâng cho Trung quốc một nửa tỉnh khoảng 80 lần diện tích Thăng Long cùng một vùng biển cả bao la quan trọng của đất nước!

Dự đoán là Quân Đội Nhân Dân sẽ không chấp nhận mối nhục bất lực do đảng tạo ra cho nên các chính trị gia đảng CSVN đã bắt cóc lãnh đạo, cưỡng bức tư tưởng và đàn áp tướng sĩ của Quân Đội Nhân Dân nhằm bảo vệ quyền lợi của họ - những người làm chính trị theo ý thức hệ bè phái - thay vì quyền lợi của nhân dân. Một số tướng lãnh Quân Đội Nhân Dân đã phản bội nhân dân và chiến binh bộ đội của họ sau khi bị các chính trị gia đảng CSVN bắt cóc. Từ Quân Đội Nhân Dân ra (trước khi vào đảng họ là quân nhân) nhưng khi bị đảng bắt cóc đưa vào vai trò lãnh đạo với lợi lộc tham nhũng khổng lồ thì họ nhanh chóng quên đi quyền lợi của chiến binh Quân Đội cũng như quyền lợi của Nhân Dân. Chúng ta chỉ cần so sánh lối sống xa hoa của các tướng lãnh nay là chính trị gia tham nhũng của đảng CSVN như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu (mới vào đảng từ năm 1986), Phạm Văn Trà, Phạm Thanh Nhàn, v.v., với đời sống lầm than đói rét của đa số gia đình bộ đội đang thi hành nghĩa vụ và 1.662.523 cựu chiến binh sinh hoạt trong 12.992 tổ chức CCB cùng gia quyến liệt sĩ, cô nhi, quả phụ thì thấy rõ hố ngăn cách khó hiểu trong một xã hội mà các chính trị gia đảng CSVN ca ngợi hết lời.  Thực tế đất nước ngày nay cho thấy chiến binh bộ đội và gia quyến không những bị các chính trị gia đảng CSVN làm nhục mà còn bị họ phản bội đày đọa  lầm than tủi khổ; quả thật là Nước mất, Dân nguy, Quân khổ nhục.’

Quân
Đội Nhân Dân của dân, do dân và vì dân đã bị các chính trị gia đảng CSVN bắt cóc lãnh đạo, cưỡng bức tư tưởng và đàn áp tàn bạo nhằm phục vụ quyền lợi của họ thay vì quyền lợi của nhân dân. Các tướng lãnh tham nhũng và nhóm chính trị gia đảng CSVN đã phản bội dân tộc bằng cách dâng hiến đất đai Tổ Tiên cho Trung quốc để được tiếp tục tham ô sống xa hoa trên sự hy sinh của nhân dân và chiến binh bộ đội. Họ lộ nguyên hình một lũ bán nước cầu vinh đúng như câu văn mỉa mai của một cựu đại tá Quân Đội Nhân Dân ở Thanh Hóa viết trên bản hiệu bán trà nhỏ bé của ông: ‘Lúc trẻ đi cứu nước, về già đi bán nước!’
 

‘Nước mất, Dân nguy, Quân khổ nhục.
....Trổi dậy đi anh... tẩy hận nhà!’

Đời sống quân ngũ là cận kề cái chết nay chiến binh bộ đội lại mang thêm nỗi nhục bất lực do đảng CSVN tạo ra; khi ra khỏi quân đội hay về hưu, chiến binh bộ đội lại phải đối đầu với đói rách triền miên trong khi các tướng lãnh tham nhũng và nhóm chính trị gia đảng CSVN sống phè phởn trên sự hy sinh của nhân dân chiến binh. Đối đầu với bài toán xây dựng đất nước, vì tham nhũng và thiếu khả năng, đảng CSVN đã đẩy đất nước vào ngục tù nghèo đói. Ban đầu đảng CSVN còn đổ lỗi cho hậu quả chiến tranh tác hại để ngụy biện cho tình trạng nghèo nàn của nhân dân và cán binh; nhưng đã hơn một phần tư thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất và dân tộc đã đào tạo được một thế hệ thanh thiếu niên hoàn toàn mới mà đất nước vẫn chìm đắm trong ngục tù nghèo hèn do chính sự tham nhũng và thiếu khả năng của đảng CSVN dẫn đến.  Nay nhóm tướng lãnh tham nhũng và chính trị gia đảng CSVN lại bán đứng luôn cả đất nước của nhân dân cùng danh dự của Quân Đội Nhân Dân để có thể tiếp tục nắm quyền sinh sát; họ đã dâng đất nhượng biển cho Trung cộng mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của Nhân Dân cũng như khinh thường khả năng phản kháng của Quân Đội Nhân Dân.

Nhóm tướng lãnh tham nhũng và chính trị gia đảng CSVN sống vinh hoa phú quý đang lo sợ nhân dân và cán binh trổi dậy cho nên một mặt bám chặc vào chiếc phao Bắc Kinh bằng cách dâng đất nhượng biển, một mặt lại xiết chặt vòng đai cưỡng bức tư tưởng và đàn áp Quân Đội và Nhân Dân. Nhằm bảo vệ quyền lợi bè phái, họ sẳn sàng sử dụng bạo lực để cưỡng bức tư tưởng và đàn áp tướng sĩ dám nói lên sự thật ‘bán nước cầu vinh’ của đảng CSVN như đã làm trong quá khứ đối với các thành phần khác điển hình như (i) Vụ án xét lại năm 1964 nhằm hạ uy tín của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vốn bị nghi theo đường hướng cởi mở của Liên Sô, (ii) Vụ giải thể Trần Văn Trà, Huỳnh Tấn Phát và lực lượng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam năm 1975, (iii) Vụ đàn áp Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu và Câu Lạc Bộ Kháng Chiến năm 1987, (iv) Vụ 1000 chiến binh bộ đội bị bức tử hoặc khai trừ năm 1986 vì ủng hộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Mặc dầu trực diện với sự đàn áp khủng bố của đảng CSVN, nhân dân đã trổi dậy và cuộc tranh đấu do chính các cựu chiến binh Quân Đội Nhân Dân và gia đình liệt sĩ khởi xướng đã xảy ra ở nhiều nơi. Những cuộc biểu tình của nông dân tại Ðồng Nai, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Ðịnh, Thanh hóa, Bắc Ninh... đòi đất và chống tham nhũng lan rộng nhưng bị đảng CSVN ém nhẹm. Đặc biệt là ở Thái Bình vào năm 1997, các cựu chiến binh đã tổ chức nhiều cuộc xuống đường chống tham ô giành lại ruộng nương. Nhân dân của 158 làng xã tích cực tham gia cuộc đấu tranh cùng với các chiến binh ròng rã 2 tháng trời cho đến khi bị đảng CSVN đàn áp dã man. Từ năm 1995 mãi cho đến hôm nay, nhiều cựu chiến binh tướng lãnh cùng các thành phần nhân dân đã lên tiếng phê phán đảng CSVN qua Hội Chống Tham Nhũng và các bài viết phổ biến rộng rãi khắp nơi. Công cuộc đấu tranh của nhân dân và các cựu chiến chưa thành công vì đảng CSVN bắt cóc lãnh đạo, cưỡng bức tư tưởng và đàn áp tướng sĩ của Quân Đội Nhân Dân khiến lực lượng chủ yếu này chưa chính thức can thiệp bảo vệ nhân dân và quyền lợi đất nước chống lại sự đàn áp của đảng.

Đảng CSVN được thành lập trên căn bản khuếch trương quốc tế cộng sản và bảo vệ Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa. Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa của đảng CSVN là Liên Sô, và Liên Sô - cái nôi của quốc tế cộng sản – đã tan rã từ năm 1991 cho nên đảng CSVN không còn lý do để tiếp tục tồn tại. Nhưng đảng CSVN vẫn bám víu vào bạo lực đàn áp nhân dân cũng như cưỡng bức Quân Đội Nhân Dân của dân, do dân và vì dân để có thể tiếp tục tham ô vinh thân. Nhưng càng nhục hơn nữa khi chỉ vì để được tiếp tục cầm quyền bất chánh, chưa chiến đấu mà đảng CSVN đã đàn áp Quân Đội Nhân Dân bắt phải đầu hàng và bắt nhân dân Việt Nam phải hiến dâng cho Trung quốc một nửa tỉnh khoảng 80 lần diện tích Thăng Long cùng một vùng biển cả bao la quan trọng của đất nước!

Mối nhục bất lực bị khinh bỉ của Quân Đội Nhân Dân hôm nay do đảng CSVN tạo ra. Đảng CSVN vô hình chung chứng minh là cẩu từ ‘mọi rợ’ không biết đến Tổ Tiên mà phong kiến Trung Hoa gán cho Việt tộc quả đúng với nhóm tướng lãnh tham nhũng và chính trị gia đảng CSVN sống vinh hoa phú quý. Chính nền văn hóa của Trung quốc mới vừa nhận biển đất do đảng CSVN dâng hiến đã dạy: ‘Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.’ Tổ Tiên của chúng ta cũng đồng ý với quan niệm ‘đất nước thịnh suy thì kẻ tầm thường cũng có trách nhiệm’ này cho nên dám hy sinh đánh đổ cả ngàn năm phong kiến đô hộ. Trong gông cùm kiểm soát đàn áp của chế độ thống trị Trung hoa tàn bạo, Tổ tiên đã biết học của giặc để đánh giặc và cởi bỏ gông cùm nô lệ đàn áp!

Hàng triệu người đã nằm xuống để xây dựng lực lượng Quân Đội Nhân Dân hùng mạnh với niềm tin là Quân Đội Nhân Dân sẽ hoàn thành sứ mạng bảo vệ quyền lợi của nhân dân và biên thùy đất nước với bất cứ giá nào. Rất tiếc là hôm nay những anh hùng trong Quân Đội Nhân Dân với vũ khí hiện đại và kinh nghiệm chiến trường trong tay chưa lên tiếng bảo vệ danh dự cũng như quyền lợi dân tộc và cởi bỏ gông cùm đàn áp của đảng CSVN nhằm phục vụ quyền lợi chánh đáng của nhân dân. Tuy vậy tôi vẫn tin rằng hồn thiêng của sông núi và tiền nhân cũng như anh hùng liệt nữ vô danh nằm xuống vì lý tưởng độc lập tự do như bác hai và các bằng hữu sẽ sớm làm thức tỉnh cái tâm vị quốc vong thân cao thượng trong chiến binh Quân Đội Nhân Dân các cấp - vốn là tinh hoa và hy vọng của đồng bào - để họ chính thức can thiệp bảo vệ nhân dân cùng quyền lợi đất nước chống lại sự đàn áp của đảng CSVN bởi vì phục vụ tổ quốc chính là phục vụ nhân dân, phục vụ nhà nước dân chủ của dân do dân và vì dân, chứ không phải đảng CSVN bán nước cầu vinh.

Ngày xưa Đức Trần Hưng Đạo đã chứng minh hùng hồn là nếu dân quân đồng lòng bảo bọc lẫn nhau thì Việt Nam vẫn có thể đánh thắng kẻ thù to lớn như đế quốc Mông Cổ và bảo vệ biên thùy đất nước. Ngày nay nhân dân và quân đội đoàn kết sẽ khai trừ dễ dàng đảng CSVN bán nước cầu vinh và giải phóng dân tộc ra khỏi gông cùm nghèo hèn nhằm mở thông lộ dân chủ đưa đất nước thăng tiến phú cường hầu Tổ Tiên được hảnh diện cùng cộng đồng nhân loại.

Nông Bản Nhân

RFA - 10/2/2002