KHI KÝ CÁC HIỆP ƯỚC NHƯỢNG ÐẤT BÁN NƯỚC
CHO NGOẠI BANG ÐẢNG CỘNG SẢN ÐÃ VI PHẠM
NHÂN QUYỀN VÀ VI PHẠM LUẬT PHÁP QUỐC TẾ

L.S. Nguyễn Hữu Thống

 

Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Hiến pháp Việt Nam năm 1967 tuyên bố lãnh thổ Việt Nam bất khả phân và bất khả nhượng.

Vậy mà trong những năm 1999 và 2000, Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã đi ngược lại ý nguyện của quốc dân, không bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quốc gia và đã ký 2 hiệp ước để nhượng đất miền biên giới và bán nước vùng Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng.

Trên bình diện luật pháp, các hiệp ước này đã vi phạm đạo lý và vi phạm pháp lý. Do đó các chính phủ dân cử trong tương lai có quyền phủ nhận và tiêu hủy các hiệp ước bất công và bất nhân này.

Theo công pháp quốc tế, một hiệp ước bị coi là vô hiệu khi có những đối tượng phản đạo lý (immoral) vì đã tạo nên những nghĩa vụ bất hợp pháp trái với những mục tiêu và nguyên tắc căn bản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (HCLHQ) Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (TNQTNQ).

Nó cũng bị coi là vô hiệu nếu gây nên một sai lầm pháp lý (a legal wrong) vì đã vi phạm những hiệp ước quốc tế, và các công ước quốc tế hiện hành.

Về mặt nhân quyền, khi ký kết hai hiệp ước nhượng đất bán nước nói trên, các Ðảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc đã vi phạm những nguyên tắc chỉ đạo của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Phụ Ðính Tuyên Ngôn Qước Tế Nhân Quyền. Ngoài ra họ còn vi phạm các Công Ước về những Quyền Dân Sự Chính Trị về những Quyền Kinh Tế Xã Hội Văn Hóa Công Ước về Luật Biển.
 

1. Vi phạm những mục tiêu và nguyên tắc chỉ đạo của Luật Quốc Tế Nhân Quyền.

Sau Thế chiến thứ hai, để đem lại hòa bình và an ninh cho các quốc gia, Liên Hiệp Quốc đã ban hành Hiến Chương LHQ (1945) và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948), bổ túc bởi Phụ Ðính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1998).

Sáu mục tiêu và nguyên tắc chỉ đạo các tương quan giữa các quốc gia hội viên LHQ là bình đẳng, hợp tác, hữu nghị, hòa bình, công lý, và tự do (trong đó có tự do kết ước, không bạo hành, không áp bức, không thôn tính và không lấn chiếm). Những nguyên tắc này được xác nhận bởi Công Ước Dân Sự Chính Trị Công Ước Kinh Tế Xả Hội Văn Hóa (1966) mà cả Việt Nam lẫn Trung Cộng đã ký kết tham gia.

Khi ký hai hiệp ước nhượng đất bán nước nói trên, Ðảng CS Việt Nam đã chịu thần phục Trung Cộng do áp bức và cưỡng chế, trái với tinh thần bình đẳng, công lý và tự do kết ước. Ngoài ra họ còn có hậu ý muốn dựa vào Trung Cộng để duy trì quyền lực. Cũng vì vậy họ đã hy sinh quyền lợi của dân tộc để bảo vệ quyền lợi của Ðảng. Trong khi đó Trung Cộng đã dùng uy lực của kẻ đàn anh, người gia trưởng, giám hộ để xâm nhập, lấn chiếm đất đai, tạo nên tình trạng đã rồi theo luật rừng xanh. Và với thế thượng phong sẵn có, họ buộc Ðảng CS đàn em phải hợp thức hóa tình trạng đã rồi, và hủy bỏ các hiệp ước quốc tế Hoa Việt ký kết từ thế kỷ 19.
 

2. Vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Phụ Ðính TNQTNQ trong Phần Mở Ðầu đã lên án những vi phạm tập thể thô bạo và có hệ thống bắt nguồn từ sự đô hộ, lệ thuộc hay áp chế phương hại đến chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ. Sự lệ thuộc này đã tước đoạt của cả một dân tộc quyền được sử dụng các vùng lãnh thổ và hải phận trong mục tiêu an ninh quốc phòng, cũng như trong việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên tại đất liền và biển cả.

Lịch sử Việt Nam ngày nay muốn tái diễn cảnh thần phục Bắc Phương tưởng đã chấm dứt từ thiên niên kỷ thứ nhất. Ðảng CSVN đã thú nhận rằng: "Trung Quốc đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình, để chúng ta có ngày hôm nay." Do đó họ đã đánh mất một phần chủ quyền quốc gia và đãụ vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
 

3. Vi phạm quyền dân tộc tự quyết và quyền tham gia chính quyền. Chiếu Dân Tộc Tự Quyết người dân có quyền lựa chọn chế độ và chính sách quốc gia và lựa chọn chính quyền để thực thi chính sách đó.

Ðiều 21 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền xác định rằng "ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực chính phủ" (The will of the people shall be the basis of the authority of government). Như vậy chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân chứ không thuộc về Ðảng Cộng Sản.

Nếu ngày nay người dân được hành sử Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong một cuộc trưng cầu dân ý, chắc chắn họ sẽ phủ nhận sự độc quyền lãnh đạo của Ðảng CS, và sẽ phủ nhận các hiệp ước nhượng đất bán nước do Ðảng CS vừa ký kết.

Từ thế kỷ 19, Việt Nam và Trung Hoa đã ký những hiệp ước công khai và công bằng để phân ranh miền biên giới (Hiệp Ước Thiên Tân 1885) và phân ranh hải phận Bắc Việt (Hiệp Ước Brévié 1887). Các hiệp ước quốc tế này đã đem lại an ninh và ổn cố cho hai quốc gia từ hơn một thế kỷ. Nay bỗng dưng vô cớ Ðảng CSVN lén lút nhượng đất bán nước cho Trung Cộng, ngoài sự hay biết và trái với ý nguyện của quốc dân. Hành động này vi phạm thô bạo Quyền Dân Tộc Tự Quyết quy định trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (Ðiều 55), Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Ðiều 21), Công Ước Dân Sự Chính Trị (Ðiều 1), Công Ước Kinh Tế Xã Hội Văn Hóa (Ðiều 1), và Phụ Ðính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Phần Mở Ðầu).

Ðồng thời Ðảng CS còn tước đoạt của người dân quyền tham gia chính quyền khi họ tự tiện ghi vào Hiến Pháp Ðiều 4, giành độc quyền lãnh đạo cho Ðảng CS. Họ không chịu chia sẻ quyền hành với bất cứ ai và cũng không chịu sự kiểm soát và chế tài của bất cứ ai.

Họ đã thiết lập chế độ độc tài toàn trị trong đó Ðảng lãnh đạo nhà nước, với chính phủ tay sai và quốc hội bù nhìn.

Hành động như vậy Ðảng CS đã tước đoạt của người dân quyền tham gia chính quyền, quy định trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Ðiều 21), Phụ Ðính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Ðiều 8) Công Ước Dân Sự Chính Trị (Ðiều 25).
 

4. Vi phạm quyền tự do thông tin.

Quyền tự do ngôn luận bao gồm tự do phát biểu, tự do thông tin, tự do tiếp nhận và phổ biến tin tức. Muốn hình thành một hiệp ước quốc tế phải trải qua 4 giai đoạn: thương thuyết, ký kết, phê chuẩn và công bố (hay ban hành). Trong vụ này, Ðảng CS đã gian trá, giấu giếm không chịu công khai hóa hiệp ước. Họ đã cùng đối phương mật đàm, mật ước, lén lút thông qua, và không công bố hiệp ước trên công báo, báo chí, các đài truyền thanh, truyền hình v.v. (Có lẽ họ cho đây là một bí mật quốc gia). Trong lịch sử pháp lý của nhân loại, đây là lần đầu tiên một chính phủ và một quốc hội không chịu công bố một hiệp ước quốc tế mà họ đã ký kết và phê chuẩn. Vì họ ý thức rằng hiệp ước này đã vi phạm đạo lý và vi phạm pháp lý. Nó đi ngược lại quyền lợi của quốc gia và trái với ý nguyện của toàn dân. Bằng hành vi này, nhà nước Cộng Sản chứng tỏ rằng họ chỉ là những công cụ, bù nhìn, tay sai của Ðảng Cộng Sản. Và cũng bằng hành vi này Ðảng và Nhà Nước Cộng Sản đã vi phạm quyền của người dân được tiếp nhận tin tức, tham khảo tài liệu của nhà nước. Ðây là quyền tự do thông tin, một nhân quyền căn bản được ghi trong Ðiều 19 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, Ðiều 19 Công Ước Dân Sự Chính Trị, và Ðiều 6 Phụ Ðính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Vì hiệp ước không được công bố nên ngày nay người dân miền biên giới không biết nhà đất của họ còn nằm trong lãnh thổ Việt Nam hay đã thuộc về Trung Quốc?
 

5. Vi phạm nghĩa vụ của nhà nước trong việc thực thi nhân quyền và xây dựng dân chủ.

Bản Phụ Ðính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nhấn mạnh rằng: "nhà nước có trách nhiệm tiên khởi và có nghĩa vụ đề xướng, bảo vệ và thực thi nhân quyền và những quyền tự do căn bản". Các Ðiều 2 và 18 Tuyên Ngôn Phụ Ðính quy định nghĩa vụ của công dân và các cơ quan đoàn thể trong việc phát huy dân chủ, xây dựng các xã hội dân chủ, thiết lập các định chế dân chủ và các thủ tục sinh hoạt dân chủ.

Vì không tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, quyền tham gia chính quyền, quyền tự do thông tin và những quyền tự do căn bản khác của người dân, nhà nước Cộng Sản đã ngăn cản việc xây dựng một xã hội dân chủ với các định chế và thủ tục sinh hoạt dân chụ Vì nhà nước chỉ là một công cụ của Ðảng Cộng Sản nên Ðảng này phải chịu trách nhiệm về những vi phạm thô bạo nhân quyền và những quyền tự do căn bản của người dân ghi trong Luật Quốc Tế Nhân Quyền.
 

6. Vi phạm các Công Ước Quốc Tế kể cả Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Các Công Ước Quốc Tế Liên Hiệp Quốc chủ trương sự hợp tác quốc tế trên căn bản công bằng, hữu nghị, và bình đẳng quyền lợi của các quốc gia kết ước. Không có sự chối cãi là về vấn đề lãnh thổ và hải phận từ cuối thế kỷ 19, Việt Nam và Trung Hoa đã ký những hiệp ước công bằng và tôn trọng quyền lợi hỗ tương. Những hiệp ước này đã đem lại an ninh, hòa bình và ổn định từ hơn một thế kỷ nay.

Trong khi đó Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung muốn áp đặt một tình trạng đã rồi, do sự lấn chiếm của Trung Cộng trong Chiến Tranh Ðông Dương và Chiến Tranh Trung Việt (1979). Ðạo lý quốc tế không cho phép hợp thức hóa một tình trạng do xâm chiếm hay bạo hành. Ðó là sự khác biệt giữa luật pháp văn minh của loài người và luật rừng xanh.

Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt không tôn trọng các điều khoản của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (1982), theo đó sự phân ranh thềm lục địa và hải phận phải căn cứ vào các tiêu chuẩn của Tòa Án Quốc Tế La Haye Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế. Theo án lệ cố định của Tòa Án Quốc Tế được coi như Luật Tục Lệ Quốc Tế (Customary International Law) thì sự phân ranh hải phận tại Vịnh Bắc Việt phải tham chiếu những yếu tố sau đây:

  1. Về mật độ dân số, số dân cư ngụ tại miền bờ biển Bắc Việt đông gấp 10 lần số dân sinh sống tại bờ đảo Hải Nam phía tiếp giáp Việt Nam.
     
  2. Bờ biển Bắc Việt dài gấp 3 lần bờ đảo Hải Nam phía tiếp giáp Việt Nam.
     
  3. Về khu đặc quyền kinh tế để đánh cá, Biển Ðông là khu vực đánh cá căn bản của Việt Nam, trong khi dân chài đảo Hải Nam còn được hưởng 200 hải lý để đánh cá về phía đông bờ đảo chạy thông ra Thái Bình Dương.
     
  4. Về thềm lục địa để khai thác dầu khí tại Vịnh Bắc Việt, dầu khí nằm trong các thủy tra thạch kết tụ các chất hữu cơ do nước phù sa sông Hồng Hà từ cao nguyên Tây Tạng chảy ra biển từ cả triệu năm nay. Không có con sông lớn nào từ đảo Hải Nam hay từ lục địa Trung Hoa chảy ra Biển Ðông cho phép Trung Hoa khai thác các túi dầu khí tại vùng này.
     
  5. Về mặt kinh tế và an ninh quốc phòng, Biển Ðông có quan hệ mật thiết với Việt Nam hơn Trung Hoa. Vì Trung Hoa còn có Biển Hoàng Hải và Ðông Trung Quốc Hải chạy thông ra Thái Bình Dương.

Từ thập niên 1960, Tòa Án Quốc Tế đã căn cứ vào những yếu tố và tiêu chuẩn trên đây để phân ranh hải phận và thềm lục địa tại các quốc gia duyên hải. Thông thường Tòa Án không đồng hóa hải đảo (Hải Nam) với lục địa (Bắc Việt).

Một phần vì không am tường pháp luật, Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã nhượng bộ Trung Cộng quá đáng, làm thiệt hại từ 10% đến 16% hải phận Vịnh Bắc Việt. Giải pháp thỏa đáng nhất là trở lại Hiệp Ước Brévié năm 1887.

Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt chưa được phê chuẩn nên chưa có hiệu lực chấp hành. Do đó nếu đồng bào quốc nội đứng lên lập kiến nghị hay tổ chức mít tinh, biểu tình tuần hành yêu cầu Quốc Hội không phê chuẩn, thì hiệp ước sẽ tự động tiêu vong. Ðó là một hình thức hữu hiệu trong cuộc đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất bạo động để đòi hành sử Quyền Dân Tộc Tự Quyết.

Phong trào ngăn chặn Quốc Hội không phê chuẩn Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt sẽ có tác dụng ngăn chặn Ðảng CS trong việc ký kết một Hiệp Ước Biển Ðông để nhượng nốt cho Trung Cộng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

L.S. Nguyễn Hữu Thống

Tháng 1, 2002
 


 

The VN - China Treaties of 1999 & 2000
under the light of human rights &
the international laws concerned
 

In this study, Attorney-at-law Nguyen Huu Thong examined the Vietnam - China Land Border and Sea Territories Treaties under the light of human rights and the international laws stated in the U.N. Charter, the Universal Declaration of Human Rights and related covenants and the U.N. Convention on the Law of the Sea as well as other human rights and international laws concerned.

After extensive analyses, the writer concluded that the Treaties indeed violate the universal human rights standards and the international cited; therefore, the people of VN consider them invalid.

For more information, please refer to the writer's original in Vietnamese.