Chiến lược mặt biển của Trung Quốc
và vấn đề biển Ðông

Nguyễn Duy Chính

 

Lời nói đầu: Trong vài thập niên gần đây, biển đông (tức biển Nam Trung Hoa hay biển Ðông Nam Á tùy theo từng tác giả) đã trở nên một vấn đề quan trọng trong chính sách của các quốc gia Ðông Á. Tranh chấp quyền sở hữu và khai thác khu vực này đã là một quan tâm hàng đầu của nhiều chính quyền. Nghiên cứu về vai trò kinh tế, quá trình lịch sử của nó đã được nhiều học giả trình bày cặn kẽ, cụ thể là hai cuốn "Ðặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa" của nhóm nghiên cứu sử địa miền Nam Việt Nam trước năm 1975 (được nhà xuất bản Văn Nghệ-Khai Trí tái bản tại hải ngoại năm 1992) và "Ðịa Lý biển Ðông với Hoàng Sa và Trường Sa" của Vũ Hữu San (do Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn toàn Lãnh Thổ Việt Nam ấn hành năm 1995). Nhiều học giả nước ngoài cũng có những công trình hoặc nghiên cứu riêng về vùng biển, hoặc đặt chung trong nghiên cứu khu vực, chẳng hạn như Steven J. Hood (Dragons Entangled, Indochina and the China-Vietnam War, M.E. Sharpe Inc. 1992), Peter Kien-hong Yu (A Study of The Pratas, Macclesfield Bank, Paracels, and Spratlys in the South China Sea, Taipei 1988) Phù Tuấn (Nam Hải Tứ Sa quần đảo, Thế Kỷ thư cục Ðài Bắc 1981) ... Ngoài ra còn vô số những bài viết trên báo chí, tập san Việt, Mỹ, Pháp, Hoa ... về biển đông. Có những tài liệu hết sức xác đáng nhưng cũng có nhiều tài liệu không chân thực, điển hình là những tài liệu do Hoa lục hay Hongkong phổ biến.. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về vấn đề biển đông, chúng ta không thể bỏ qua những lập luận từ nhiều góc cạnh khác, nhất là đó là những lập luận mà nhà nước Trung Hoa sử dụng trên bàn cờ chính trị quốc tế.

Những vấn đề liên quan trực tiếp đến biển đông đã được nhiều người đề cập đến. Vì thế chúng tôi chỉ viết rất sơ lược và dành những chi tiết cụ thể đó cho những công trình nghiên cứu sâu rộng hơn, qui mô hơn. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ trình bày khu vực biển đông để gợi ý cho độc giả về tầm quan trọng của nó đối với toàn vùng Ðông Nam Á, nhất là đối với trật tự mới của vùng Thái Bình Dương trong thế kỷ sắp tớị Vai trò chiến lược và an ninh ngày càng đậm nét hơn vai trò kinh tế nhất là đối với Việt Nam chúng ta.

 

I. Dẫn nhập

Ai cũng biết việc Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam cũng như việc Việt Nam được thu nhận vào Hiệp Hội Các Quốc Gia Ðông Nam Á (ASEAN) không chỉ đơn thuần vì lý do kinh tế. Tái lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam là một dấu hiệu chứng tỏ Hoa Kỳ muốn thiết lập một thế quân bình mới tại Á Châu. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất mà chính quyền Mỹ công khai đưa ra là việc ngăn ngừa chính sách bành trướng của Trung Quốc. Chính sách tàm thực (tằm ăn dâu) của Trung Quốc trong vài thập niên qua đánh dấu một sự chuyển mình lớn trong chiến lược đối ngoại của họ. Nếu Trung Quốc làm chủ biển đông không phải chỉ Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng mà Philippines, Indonesia, Malaysia, Thailand cũng sẽ bị khống chế. Ðài Loan sẽ bị cô lập và chịu áp lực trầm trọng. Công cuộc vận động để tiến tới một tư thế độc lập của nhân dân Ðài Loan sẽ trở nên gay go hơn. Thêm vào đó, Nhật Bản, Ấn Ðộ, Hoa Kỳ cũng sẽ bị án ngữ và chia cắt, mất hết ảnh hưởng đối với vùng Ðông Nam Á, gây nguy hại cho các kế hoạch mậu dịch và chiến lược ổn định toàn cầu. Chính vì thế, một giải pháp phối hợp nhiều quốc gia để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc không những bảo vệ được mặt biển phía đông của Việt Nam mà còn tạo được sự ổn định trường kỳ cho toàn thể khu vực tây ngạn Thái Bình Dương.

Nhiều phân tích gia đã cho rằng nếu thế kỷ thứ 19 là thế kỷ của các dân tộc vùng Ðại Tây Dương thì khi sang thế kỷ thứ 21, vùng châu Á Thái Bình Dương sẽ trở thành khu vực kinh tế quan trọng hàng đầu của thế giới. Một Ðại Trung Hoa bao gồm Hoa Lục, Ðài Loan, Singapore và các cộng đồng Hoa kiều rải rác khắp thế giới sẽ trở thành một lực lượng kinh tế và chính trị vô cùng mạnh mẽ. Cho nên, đối chiếu với viễn tượng của vài chục năm sắp tới, những phân tích gia chiến lược đều nhìn nhận rằng Trung Quốc không phải chỉ tìm kiếm vai trò siêu cường kinh tế mà còn tìm lại vị trí "thiên triều" của họ trong lịch sử, trong đó các nước chung quanh là thuộc quốc, phải thần phục và triều cống, công nhận tư thế lãnh đạo của họ về mọi mặt.

 

II. Chiến lược mặt biển của Trung Hoa

Trong thời thượng và trung cổ, Trung Quốc không có một khái niệm rõ rệt về biển cả và chỉ nuôi tham vọng bành trướng trên đất liền. Thời Xuân Thu, Chiến Quốc, người Trung Quốc tưởng rằng nước Tàu là trung tâm thế giới, các nước chung quanh đều man di, mọi rơ Chính vì thế mà họ tự gọi mình là Trung Quốc tức nước ở trung tâm. Hai chữ "thiên hạ" (dưới vòm trời) là nói về những dân tộc sống trong vùng lục địa Trung Hoa và những tiểu quốc chung quanh thần phục nước Tàu. Ở phía đông là biển cả vô tận, chỉ được mô tả trong những truyện thần kỳ, nơi những người phi thường mạo hiểm đi tìm thuốc trường sinh. Việc tìm hiểu những vùng đất bên kia bờ đại dương không mấy ai nghĩ đến. Thảng hoặc có người để tâm nghiên cứu thì phần lớn chỉ là sưu tầm những dật sự hoang đường trong tưởng tượng hơn là mắt thấy tai nghe. Cho nên, những sự kiện đó không đáng tin mà chỉ là một loại tiểu thuyết, dẫu có dựa trên một số yếu tố lịch sử nhưng vẫn chỉ là sản phẩm được hình thành với mục đích giải trí mà thôi.

Trong thời phong kiến, Khổng học được coi là sở học chính thống, tinh thần thương mại bị coi là thấp kém, giới thương nhân đứng sau cùng trong tứ dân sĩ nông công thương. Ðời Hán, Ðường, Tống, Nguyên, thương mại với bên ngoài hầu như không có, cũng chẳng ai nghĩ đến việc tìm hiểu các nước ở xa xôi. Tuy từ đời Ðường, người Tàu đã biết rằng phía bên kia dãy Hi Mã Lạp Sơn có các đế quốc Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập, Ấn Ðộ ... nhưng thời đó Trung Hoa vẫn là khu vực văn minh nhất và các nơi phải đến học hỏi họ chứ họ không phải cất công đi tìm hiểu người khác. Hồi thế kỷ thứ bảy, Tràng An (kinh đô nhà Ðường) là khu vực thị tứ lớn nhất thế giới lúc bấy giờ diện tích hơn ba mươi dặm vuông, hơn hai triệu cư dân, và hàng trăm đền đài tráng lệ. Ở kinh đô, người ta có thể tìm thấy nhiều loại sản phẩm khắp nơi mang đến trong đó có cả đặc sản của Phi Châu, Ấn Ðộ, Java ... Những phú gia có thể mua cả mỹ nữ Tây Dương tóc vàng mắt xanh làm tì thiếp.[1] Tơ lụa và đồ gốm là những sản phẩm quí giá các thương gia nước ngoài đến Trung Hoa mua về. Thời ấy, người Ả Rập và người Ba Tư có những đoàn thương thuyền hùng hậu nhất, qua lại khu vực biển cả từ Ấn Ðộ Dương sang Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đối với các vua chúa nước Tàu, đó chẳng qua chỉ là những hình thức triều cống, tỏ lộ sự thần phục và hàng hóa mua về sẽ giúp vào việc "khai hóa" các dân tộc man di. Buôn bán chủ yếu vẫn theo đường bộ ở phía Tây, các đoàn lạc đà đi theo con đường mà người ta gọi là Con Ðường Lụa (Silk Road). Còn đường biển buôn bán các đồ gia vị (Spice Route) không qua đến Tàu mà chỉ đến trung và bắc Việt Nam rồi mới theo đường bộ mà sang Nam Trung Hoa.[2]

Về chiến lược, biển cả được coi như là một chiến lũy thiên nhiên bảo vệ nước Tàu. Thành thử, họ chỉ chú trọng vào việc củng cố một lực lượng bộ và kỵ binh bảo vệ trung nguyên khỏi sự xâm lăng của những bộ lạc du mục. Hầu như đời vua nào cũng phải tiêu pha vào việc xây đắp trường thành, củng cố đồn bót dọc theo biên thùy phía bắc và phía tây. Trong văn chương đời Ðường, đời Tống chúng ta thấy nhắc nhiều đến biên ải, quan tái, phong hỏa (đốt lửa để truyền tin báo động), sa trường (chiến trận trên sa mạc) ... chứ không ai nói đến biển cả. Không khí chiến tranh mà văn nhân, thi sĩ cảm nhận được là gió thổi căm căm, cát bay đá chạy, quân reo ngựa hí chứ không phải sóng vỗ bập bềnh. Nếu có nhắc đến thuyền bè thì là thuyền chạy trên sông và người Trung Hoa chỉ hình dung những trận thủy chiến khốc liệt mà bối cảnh là sông Xích Bích, sông Tiền Ðường ...

Ðến thời nhà Tống, triều đình Trung Hoa bắt đầu quan tâm đến phòng ngự mặt biển, không phải chống xâm lăng mà là đối phó với các toán giặc biển thường ăn cướp các thương thuyền và dân cư duyên hải. Lực lượng tuần phòng đó phối hợp cả quan quân triều đình lẫn thương nhân. Lực lượng hải quân đầu tiên được thành lập từ năm 1132 nhưng chỉ dùng để tuần phòng bờ biển mà thôi. Một trăm năm sau, Tống triều đã có một lực lượng tuần phòng lên đến 20 đoàn thuyền và một lực lượng hơn năm vạn lính. Thế nhưng đó chỉ là hình thức vì đến chín phần mười binh sĩ trên thuyền không chiến đấu được. Năm 1239, khi một viên quan đi xem xét căn cứ hải quân Trấn giang phía đông Nam Kinh trên bờ sông Dương Tử, thấy rằng trong 5000 binh sĩ trú đóng, chỉ có 500 người đủ sức đi thuyền, còn lại là thành phần bất khiển dụng.[3] Chúng ta có thể hiểu được tại sao mỗi khi Nam chinh, quân Tàu luôn luôn bị đại bại trên mặt biển và đường sông ở nước ta. Trung Hoa từ thời trung cổ trở về trước không quan tâm đến biển cả, coi như cương vực định sẵn trên đất là của thiên tử mà dưới bể là của Long Vương. Xâm phạm đến biển cả là gây chuyện với thượng giới. Trái lại, Việt Nam ta lại coi biển cả là một nửa máu huyết của mình (truyền thuyết tiên rồng), tổ quốc bao gồm đất và nước. Văn minh nông nghiệp gắn liền với đất đai và biển cả là đặc tính của Nam phương, trong khi đó miền Bắc vốn là dân du mục giỏi chinh phục trên lưng ngựa. Thời trung cổ, chỉ có người phương Nam mới giỏi về đường thủy (người phương Bắc thiện đi ngựa, người phương Nam giỏi đi thuyền là câu nói của người Trung Hoa). Chính vì thế, trong những cổ vật đào được ở Việt Nam thường có trang trí hình thuyền trong khi tại Trung Hoa thường có những cỗ xe ngựa.

Tuy có ưu thế về hải quân, nhà Tống vẫn không chống nổi quân Nguyên từ phương bắc tràn xuống và đến năm 1279 thì nước Tàu hoàn toàn dưới quyền cai trị của người Mông Cổ. Trong các đẳng cấp mới của triều đình Nguyên, người Tàu ở phương Nam (Nam Nhân) đứng cuối cùng. Trong cùng thứ bậc đó thì sĩ phu Trung Hoa (thứ 9) tuy trên được ăn mày (thứ 10) nhưng đứng sau gái đĩ (thứ 8). Nhà Nguyên chỉ trọng dụng các dân tộc ngoài quan ải, miền Trung Á. Người Trung Hoa phía bắc Hoàng Hà mới được gọi là Hán Nhân (han ren) và được đứng hàng thứ ba.

Trong khi đánh nhau với nhà Tống, quân Mông Cổ đã xây dựng được một lực lượng hải quân hùng hậu và sau đó dùng các đoàn chiến thuyền này đi chinh phục vùng Ðông Nam Á và Nhật Bản. Tuy nhiên đoàn quân bách thắng của họ bị đánh bại ba lần tại Việt Nam (1258-88), hai lần bị bão lớn đánh đắm ngoài khơi Nhật Bản (1281) khi họ rút quân ra khỏi đảo Kyushu và một lần tại Indonesia (1293) khi tiến đánh Java.

Ðến thế kỷ thứ 16, dưới triều Minh, nước Tàu bị nạn cướp biển quấy phá. Những hải tặc đó thường là người Nhật nên được đặt tên là oải khấu (wokou, giặc lùn). Hải tặc không phải chỉ hoạt động dọc theo bờ biển Trung Hoa mà kéo dài từ Triều Tiên xuống đến tận Mã Lai. Và tuy gọi là giặc lùn, thành phần hải tặc bao gồm đủ mọi giống dân ở đông và đông nam Á Châu. Trong những đám giặc lớn có cả những người bất mãn với triều đình, bỏ đi ăn cướp. Thành thử, cả một vùng duyên hải rộng lớn coi như không thuộc quyền kiểm soát của quan quân. Các toán giặc đó cũng hoành hành dọc theo duyên hải nước ta và được gọi là giặc tàu ô vì thuyền của chúng sơn đen. Nhiều võ tướng đã nổi danh vì công trạng dẹp bọn giặc này chẳng hạn như Hoàng đình Bảo, Nguyễn hữu Chỉnh đời Lê, Bùi Viện đời Nguyễn. Vua Quang Trung thu phục chúng để sai sang quấy phá miền nam nước Tàu.[4] Bùi Viện cũng chiêu mộ họ dùng vào việc cải tiến hải quân của nước ta.[5] Gernet Jacques đã nhận định như sau:

Vào thế kỷ thứ 16, hải tặc bành trướng đến một mức độ chưa từng có và nguyên nhân có thể tìm ra được là nó có liên quan trực tiếp đến việc phát triển thương mại trên mặt biển ở Ðông Á, từ Nhật Bản kéo đến Indonesia. Các vua nhà Minh đối phó bằng chính sách ngăn cấm nhưng thiếu liên tục và chặt chẽ chỉ vì quan điểm chiến lược và kinh tế mỗi lúc một khác.

Từ thời vua Thế Tông nhà Minh, cướp bể càng hoành hành, lấy các đảo ngoài khơi làm căn cứ, đói thì vào cướp bóc, bảy tỉnh duyên hải không nơi nào yên.[6] Ðến khi Hồ Tôn Hiến, Tổng Ðốc Chiết Giang ra lệnh cấm dân chúng liên lạc, tiếp ứng cho họ, nạn giặc bể mới suy dần.[7] Thời đó, người Trung Hoa không những không muốn giao thiệp với bên ngoài mà họ còn cấm không cho học ngoại ngữ cũng như dạy tiếng Tàu cho người nước ngoài. Trong khi người Âu Châu phát triển hàng hải và tìm đường chinh phục thuộc địa thì Trung Hoa lại tài giảm hải quân nhất là từ khi đào xong Vận Hà (Grand Canal) năm 1411 và không còn cần đến việc chuyên chở hàng hóa bằng đường biển.

Trong thời nhà Minh, có hai sự kiện quan trọng mà chúng ta cần ghi nhận. Ðó là 7 chuyến viễn hành của Trịnh Hòa và việc chiếm đóng Ðài Loan của Trịnh Thành Công. Hai biến cố đó đánh dấu những bước ngoặt trong đường lối đối phó với mặt biển của triều đình Trung Hoa đồng thời cũng khẳng định là trước thế kỷ thứ 17, người Tàu không quan tâm tới các hải đảo ngoài khơi như họ viện dẫn sau này khi lấn chiếm biển đông.
 

A. Trịnh Hòa và bảy lần viễn du

Trịnh Hòa vốn tên là Ma He, là con một người Hồi tên là Mohammed Hajji đã theo đoàn quân viễn chinh Mông Cổ xuống sống ở miền Nam nước Tàu (thế kỷ thứ 13). Khi con thứ của vua Hồng Võ (tức Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương) là Chu Lệ được giao cho việc đem quân bình Vân Nam có bắt được một số lớn binh sĩ Mông Cổ và các dân tộc thiểu số người Mèo, người Dao. Ðàn ông bị giết hết, đàn bà đem về làm tì thiếp còn trẻ em và thanh thiếu niên bị thiến để làm hoạn quan hầu hạ trong cung. Một trong những đứa trẻ đó sau được ban Hán tính là Trịnh, Hán danh là Hòa. Khi Chu Lệ cướp được ngôi vua (tức vua Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc chính là người sai Trương Phụ sang chiếm nước ta), Trịnh Hòa được sai đi sứ hải ngoại để tuyên dương oai đức nhà Minh.[8]

Trịnh Hòa đóng một đoàn chiến thuyền lớn để đi xạ Chiếc thuyền lớn nhất được đặt tên là "bảo thuyền", dài 130 thước (tây), cột buồm cao 54 thước. Các thuyền khác trung bình dài 110 thước, cột buồm khoảng 45 thước. Trong chuyến hải hành đầu tiên của Trịnh Hòa, cả thảy gồm 63 chiếc thuyền và 2,780 người.[9]

Có nhiều lý do đưa ra để giải thích về những chuyến đi này. Những sử gia Trung Hoa gần đây coi là những cuộc hải trình nhằm chứng tỏ cho những dân tộc khác thấy được sự cường thịnh và huy hoàng của triều đại nhà Minh. Với quan điểm dùng lịch sử để giải thích một số tiền đề, Trung Hoa lục địa (Trung Cộng) đã hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của viên thái giám gốc Hồi. Gần đây, một viện nghiên cứu có tên là Viện Nghiên Cứu Trịnh Hòa được thành lập tại Nam Kinh. Những tài liệu họ đưa ra luôn luôn chủ quan, được vận dụng để chứng minh rằng Trung Hoa đã thám hiểm và chinh phục được nhiều vùng đất xa xôi từ thời Trung Cổ.[10] Tuy nhiên, theo những tài liệu, kể cả những văn kiện viết từ thời đó, Trịnh Hòa tuy có đến được nhiều nơi như Mã Lai, Indonesia và có lần sang tận Tích Lan, Ấn Ðộ, Phi Châu nhưng lại không viết gì về các đảo ngoài khơi Việt Nam.[11] Có lẽ trong thời kỳ đó, không ai quan tâm đến một vùng biển đầy sóng gió, hiểm nguy để thám hiểm một khu vực toàn đảo san hô ở giữa đại dương như thế. Trịnh Hòa có đi dọc theo bờ biển Việt Nam, Chiêm Thành, Chân Lạp để trao đổi trầm hương, ngà voi, sừng tê, gỗ mun đem về Tàu, và tặng lại cho thổ dân đồ sứ và tơ lụa.[12] Nếu gặp kháng cự, Trịnh Hòa đem quân bắt vua các tiểu quốc đem về như trường hợp Palembang và Tích Lan. Mỗi khi đổ bộ, Trịnh Hòa xác định ông ta là sứ giả của Hoàng đế Trung Hoa, chúa tể một quốc gia trung tâm mọi nền văn minh và Trung Hoa không tới để chiếm thuộc địa hay ép buộc phải mở cửa giao thương mà chỉ yêu cầu triều cống tỏ ý thần phục.[13]

Một lý do thứ hai có thể đáng tin hơn là vua Thành Tổ sai Trịnh Hòa đi lùng tìm vua Huệ Ðế (tức cháu gọi ông bằng chú, người lên kế vị Chu Nguyên Chương và đã bị ông cướp ngôi) nghe đồn là đã giả dạng làm sư trốn ra nước ngoài.[14] John King Fairbank, học giả lừng danh về Trung Hoa đã nêu ra ba đặc điểm về các cuộc viễn du của Trịnh Hòa:

  • Thứ nhất, đây không phải là những cuộc thám hiểm những vùng đất mới mà chỉ là những chuyến viễn hành chính thức do nhà vua sai đi. Trịnh Hòa đi theo những thủy lộ mà thương nhân Ả Rập và Trung Hoa đã đi qua.
     
  • Thứ hai, những chuyến đi đó có tính chất ngoại giao chứ không nhằm mục tiêu thương mại, lại càng không phải đi chinh phục thuộc địa. Họ trao đổi hàng hóa và mang về các đặc sản (trong đó có cả con hươu cao cổ mà họ tưởng rằng một loại kỳ lân) của những vùng xa xôi.
     
  • Thứ ba, sau khi các chuyến du hành chấm dứt vào năm 1433 thì không bao giờ tiếp tục những chuyến đi khác nữa. Ngay cả các tài liệu ghi chép về những chuyến đi này cũng bị viên Binh Bộ Thị Lang hủy đi (vào khoảng 1479) và nhà Minh cấm ngặt người Tàu buôn bán với bên ngoài.[15]
     

B. Trịnh Thành Công và đảo Ðài Loan

Trước thế kỷ thứ 17, Ðài Loan chưa được công nhận như một phần đất của Trung Hoa. Cho đến cuối đời Minh, Ðài Loan vẫn là một vùng đất không mấy ai biết đến. Bão tố, sóng cả, muỗi mòng ngăn cách thổ dân với đại lục. Cư dân trên đảo lại dữ dằn nên không mấy khi tàu bè dám ghé vào. Chỉ một số ít lái buôn dạn dĩ mới dám dong thuyền sang trao đổi sừng hươu, da thú đem về bán lấy lời. Ngoài thổ dân chỉ có hải khấu mới dám ở. Trước đó người Bồ Ðào Nha đã ghé qua và đặt cho hòn đảo cái tên Formosa có nghĩa là đẹp đẽ nhưng cũng không dám ở mà chỉ trú ngụ tại Macao, lấy nơi đây làm cơ sở chính ở Ðông Á.[16] Cũng nên nói thêm, theo nghiên cứu của nhóm học giả bản địa Ðài Loan thì thổ dân tại đây vốn thuộc giống Mã Lai đã sống trên hòn đảo này từ nhiều ngàn năm trước. Những di chỉ đào được trên đảo Ðài Loan gần với những di chỉ tìm thấy trong vùng Ðông Nam Á châu và Việt Nam, là những cư dân giỏi đường thủy chiếm cứ vùng biển Nam Á từ xưa.

Ðến năm 1624 thì người Hòa Lan đem quân chiếm hòn đảo và cai trị trong 37 năm. Người Tây Ban Nha chiếm mỏm cực bắc năm 1626 nhưng bị người Hòa Lan đánh bại năm 1642. Năm 1661, một người Tàu lai Nhật là Trịnh Thành Công đánh đuổi được người Hòa Lan. Cha của Trịnh Thành Công là Trịnh Chi Long lưu lạc sang Nhật, lập gia đình với một người đàn bà Nhật ở bên đó. Chi Long làm nghề cướp biển nhưng sau được Minh triều thu phục, phong cho một chức quan. Khi về cộng tác với triều đình, họ Trịnh được chỉ huy một đội hải thuyền, nhưng y vẫn tiếp tục đi ăn cướp nhưng không còn sợ quan quân truy lùng như trước nữa.

Khi quân Thanh tràn vào chiếm trung nguyên, một số tôn thất nhà Minh còn tiếp tục chiến đấu ở miền Nam. Trịnh Thành Công vì phò Minh nên được ban cho họ Chu (tức họ nhà vua) nên người ta thường biết ông ta qua cái tên Quốc Tính Gia (mà người Âu Châu phiên âm thành Koxinga, là cái tên thường thấy trong sách vở). Hạm đội của Trịnh Thành Công tiếp tục đánh nhau với quân Thanh dọc theo bờ biển. Năm 1659, họ Trịnh làm một cuộc phiêu lưu đem quân đánh Nam Kinh nhưng bị đại bại. Khi bị vây rất gắt ở Hạ Môn, Trịnh Thành Công đánh phải liều đem tàn quân phá vòng vây chạy ra biển đánh đuổi người Hòa Lan chiếm lấy đảo Ðài Loan.[17] Ðể ngăn ngừa Trịnh Thành Công quấy phá duyên hải, năm 1661, phụ chính đại thần triều vua Thuận Trị nhà Thanh là Oboi (chữ Hán gọi là Ngao Bái) hạ lệnh cho dân cư phải di dân vào nội địa, cách bờ biển 30 dặm để không cho tiếp ứng được với giặc ngoài biển. Khi vua Khang Hi lên ngôi (1662), nhà Thanh hai lần đem quân đánh Ðài Loan (1664 và 1665) nhưng không thành công. Về sau, Thanh triều cử Thi Lang (Shi Lang), một bộ tướng của Trịnh Chi Long trước đây về hàng, thống lãnh 300 chiến thuyền bình định Ðài Loan. Thi Lang đem quân từ Phúc Kiến tiến ra đánh bại quân họ Trịnh (lúc này Trịnh Thành Công đã chết từ năm 1662, con thứ là Trịnh Khắc Sảng kế nghiệp) ở quần đảo Bành Hồ (Pescadores) hồi đầu tháng 7, 1683 và đến cuối năm thì chiếm được toàn thể đảo Ðài Loan.

Vua Khang Hi khoan hồng không giết binh sĩ của họ Trịnh nhưng di chuyển hết lên mạn bắc để trấn giữ quân Nga đang lăm le tràn xuống. Triều đình đề nghị phá hủy đảo Ðài Loan rồi rút về nhưng Thi Lang khẩn thiết xin cho quân trấn đóng để làm tiền đồn chống giữ người Hòa Lan khỏi đến xâm lăng. Vua Khang Hi đồng ý và kể từ năm 1683, Ðài Loan mới chính thức thuộc về Thanh triều, là một thuộc địa của tỉnh Phúc Kiến.[18]

Tuy nhiên, Thanh triều cũng vẫn giữ nguyên quan niệm từ trước tới nay của Trung Quốc hạn chế việc giao thương, ngại là nếu mở cửa sẽ đem tới rối loạn, tiết lộ tin tức bí mật quốc gia và tiêu hao vàng bạc, gia tăng trộm cướp, tội ác.[19] Tuy lệnh phải cư ngụ cách bờ biển 30 dặm đã bãi bỏ nhưng nhà Thanh vẫn hết sức nghiêm cấm việc giao thiệp với nước ngoài, di cư hay liên lạc với Ðài Loan. Hòn đảo luôn luôn bị nhìn với cặp mắt nghi kỵ, khinh miệt. Thành phần cư dân cũng không được coi ngang hàng với dân chúng trong nội địa. Chính vì thế, nhà Thanh rất dễ dàng nhường lại Ðai Loan để đổi lấy một vài điều kiện trong khi giao thiệp với liệt cường sau này.

Cũng nên nói thêm là họ Trịnh là một trường hợp hết sức bất thường. Trịnh Chi Long khi còn trẻ đã lưu lạc nhiều nơi, theo các giáo sĩ Tây Dương sang cả Manila (Philippines) và là một trong số ít người Trung Hoa thời ấy theo đạo Cơ Ðốc. Trịnh Thành Công mang hai giòng máu Nhật Hoa, là đệ tử một lãnh chúa Tây Ban Nha, đã từng tham dự nhiều cuộc viễn du nên kiến thức hơn hẳn những người bình thường. Ông ta phù Minh chẳng qua chỉ vì muốn dùng chiêu bài đuổi người Mãn Thanh để có thể tự mình lên ngôi hoàng đế. Chính ảnh hưởng của người Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha và Hòa Lan đã khiến cho họ Trịnh có chí hướng xây dựng một giang sơn riêng ngoài mặt biển. Trường hợp Trịnh Thành Công cũng không khác gì Triệu Ðà sang chiếm nước ta lập nên nước Nam Việt (gồm Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa) nhưng không thể vì thế mà đi tới kết luận là hòn đảo Ðài Loan thuộc về Trung Hoa từ cuối đời Minh.

Chi tiết đó quan trọng vì nếu tính ra thì người Trung Hoa chỉ thực sự làm chủ hòn đảo từ năm 1945 tới nay (đứng trên phương diệp chủ quyền vì người Mãn Thanh là một bộ tộc quan ngoại, không phải là một triều đại chính thống của người Hán). Ðặt vấn đề Ðài Loan, người ta sẽ không thể quên quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu) cũng ở trong tình trạng tương tự, chỉ mới thuộc về Nhật Bản gần đây, nhưng Trung Hoa úy kị nên không dám nói tới chủ quyền của họ tại khu vực này.[20] René Grousset đã bình luận như sau:

Nỗ lực của ông ta (Trịnh Thành Công) đã khiến cho các sử gia phải hết sức chú ý, vì ông là người đầu tiên thực hiện một công tác mà trước đây chưa hề xảy ra ở nước Tàu. Ðó là đi tìm kiếm thuộc địa theo đường biển. Phải công nhận rằng cuộc phiêu lưu của Trịnh Thành Công đã mở đầu cho một kỷ nguyên đại di cư của người Trung Hoa, mà ngày nay ta thấy con cháu họ ở khắp nơi nơi vùng biển phía nam, từ Cholon đến Singapore, từ Batavia đến Manila và Hawaii. Các cuộc di cư ấy có ý nghĩa hết sức quan trọng mà hậu quả tới nay cũng chưa đo lường hết được.

Một số đông tàn quân nhà Minh và người Trung Hoa tị nạn cũng chạy sang Việt Nam, đáng kể nhất là nhóm của Dương Ngạn Ðịch và Trần Thượng Xuyên đóng góp nhiều vào việc khai phá miền nam nước ta.[21] Cộng đồng người Hoa trở thành những thế lực đáng kể tại các nước Ðông Nam Á bắt đầu từ thời đó.
 

C. Vấn đề độc lập của Ðài Loan

Năm 1884, sau khi chiếm được bán đảo Ðông Dương, người Pháp đem quân chiếm miền cực bắc Ðài Loan và quần đảo Bành Hồ nhưng trả lại khi hai bên ký hòa ước Thiên Tân (1885) để đổi lấy một số quyền lợi tại Việt Nam. Sau khi thua Nhật Bản năm 1895, nhà Thanh phải ký hiệp ước Mã Quan (Shimonoseki) nhường hẳn cho Nhật quần đảo Bành Hồ và đảo Ðài Loan. Mãi đến sau thế chiến thứ hai, Nhật bị đồng minh đánh bại mới trao trả Ðài Loan và quần đảo Bành Hồ lại cho chính quyền Trung Hoa dân quốc. Việc trao trả này không phải dựa trên một cơ sở pháp lý nào cả (vì nhà Thanh đã nhường đứt cho Nhật) mà chính là vì Hoa Kỳ muốn có một đồng minh mạnh ở Á Châu (tức chính quyền Quốc Dân Ðảng mà họ đã giúp đỡ trong suốt thời kỳ thế chiến thứ hai). Họ cũng không muốn Nhật làm chủ hòn đảo và trở thành một cường quốc quân sự gây bất lợi cho chính sách của Mỹ tại vùng Á Châu Thái Bình Dương[22].

Thành thử việc giao hòn đảo lại cho chính quyền dân quốc chỉ nhằm mục tiêu chặt nanh chặt vuốt của Nhật, không khác gì việc đồng ý để cho Liên Xô chiếm đóng đảo Sakhaline và quần đảo Kurile miền cực bắc của quần đảo Phù Tang.[23] Tuy nhiên chính quyền Quốc Dân Ðảng chỉ giữ được đại lục có 4 năm. Cuối năm 1949, cộng sản chiếm được Hoa lục, chính quyền dân quốc thiên di sang Ðài Loan và kể từ mồng 7 tháng 12 năm 1949, Ðài Bắc được coi là thủ phủ lâm thời của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Lúc đầu, chính sách của Mỹ không mấy quan tâm tới hòn đảo Ðài Loan, nhưng khi thấy Trung Cộng ngả hẳn về phe Liên Xô đối đầu với khối tư bản và chứng tỏ sự quyết liệt của họ trong trận chiến tranh Hàn quốc, Hoa Kỳ phải đổi hẳn chiến lược. Từ việc thành lập khối Liên Phòng Ðông Nam Á (SEATO) tới việc yểm trợ cho những chính quyền chống cộng ở Nam Hàn, Phi Luật Tân, Ðài Loan, Nam Việt Nam, Hoa Kỳ đã tạo một vành đai khít khao ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng. Dưới nhãn quan chính trị của Tây Phương, người ta chỉ quan tâm tới việc nhìn nhận chính quyền Hoa lục hay chính quyền Dân Quốc mà quên hẳn ý nguyện của người dân trên đảo Ðài Loan.

Từ khi chính quyền Quốc Dân Ðảng nới lỏng quyền tự do chính trị bãi bỏ thiết quân luật và cho phép hoạt động đối lập, nhân dân Ðài Loan đã nỗ lực tranh đấu đòi được trở thành một quốc gia độc lập. Họ viện dẫn lý do là hòn đảo không phải là sở hữu của Trung Quốc mà chỉ bị chiếm đóng ngoài ý muốn của dân bản xứ trong suốt mọi thời kỳ, kể từ thời họ Trịnh đời Minh mạt, tới đời Thanh, đời Nhật thuộc, và hiện nay bị Quốc Dân Ðảng cưỡng chiếm suốt 45 năm qua. Mặc dù người Hán nay chiếm đa số nhưng gốc gác của họ di cư tới Ðài Loan đều là những người tha hương vì không chịu thần phục triều đình nên bỏ xứ mà đi. Ngay từ nguyên thủy họ đã khước từ sự chính thống của chính quyền Hoa lục. Chính vì thế, vị trí của họ giống như những người dân đã di cư sang các quốc gia khác, không còn là thần dân của nước Trung Hoa nữa. Và họ thấy gần gũi với quê hương mới hơn với tổ quốc mà họ đã ruồng rẫy.

Ngay hiện nay, người dân Ðài Loan vẫn thấy thân thiện với người Nhật hơn là với người Tàu từ đại lục dù đó là chính quyền Quốc Dân Ðảng hay chính quyền cộng sản. Người Ðài Loan không thấy rằng họ bị Nhật áp bức mà chỉ thấy bị người Hán áp bức. Họ vẫn ngấm ngầm tri ân người Nhật đã tới khai hóa hòn đảo và căm thù sự cai trị tàn ác của chính quyền Quốc Dân Ðảng sau năm 1945.[24] Rõ ràng chính quyền Quốc Dân Ðảng đối xử với người dân Ðài Loan như một xứ thuộc địa, một phần đất của Nhật mà họ chiếm được chứ không phải với người đồng chủng. Albert Ravenholt đã mô tả như sau:

Quốc Dân Ðảng hành động một cách quyết liệt và tàn nhẫn để tiêu diệt mọi hoạt động của cộng sản, bắt bớ và tra khảo hàng ngàn nghi can. Họ bắt và xử tử một số cộng sản thật mà cũng là để trấn áp người dân trên đảo, hành hạ và bắt giam nhiều người vô tội nữa. Ðến nay vẫn còn hàng ngàn người ngồi tù, có người giam đã hơn một năm rưỡi mà chưa được xử.

Ðối với đa số dân trên đảo Formosa, cảnh tượng ghê sợ nhất là luật pháp không bảo vệ cho dân thường. Người ta có thể bị bắt ban đêm bởi tiểu tổ đặc vụ, đưa ra tòa án quân sự và kết án mà không thể kháng tố được. Một khi vào tù thì sống chết là do ban quản đốc trại giam. Có thể một người bị bắt giam vì muốn nổi loạn nhưng lắm người bị tù chỉ vì có kẻ muốn cướp đoạt tài sản nên bị vu cáo là cộng sản.[25]

Một điểm quan trọng khác mà ít ai để ý là để đề kháng lại sức ép từ cả hai phía Trung Cộng lẫn Quốc Dân Ðảng, nhân dân Ðài Loan trong mấy chục năm qua đã tạo nên một bản sắc riêng, và họ mong muốn được đứng riêng một vị trí trong cộng đồng thế giới. Mặc dù bị Trung Cộng đe dọa dùng võ lực, khuynh hướng ly khai đó ngày càng mạnh và trở thành một vấn đề quan trọng mà những chiến lược gia, kinh tế gia thế giới không thể không lưu tâm. Người ta tin rằng chính Tổng Thống Lý Ðăng Huy cũng ngấm ngầm tán trợ quan điểm này.[26] Khuynh hướng đòi độc lập và có một ghế tại LHQ hiện đang được vận động ráo riết. Ðảng Dân Chủ Tiến Bộ (Dân Tiến) do Hứa Tín Lương lãnh đạo - đảng đối lập chủ trương Ðài Loan tách rời khỏi Trung Quốc - càng ngày càng tăng thế lực và ảnh hưởng đối với dân chúng. Rất có thể trong một tương lai không xa họ sẽ thay thế Quốc Dân Ðảng trong vai trò lãnh đạo.

 

III. Chiến lược hiện đại của Trung Hoa

A. Sự chuyển hướng của chiến tranh nhân dân

Lý thuyết chiến tranh nhân dân từ trước đến nay vẫn được coi là lý thuyết chủ đạo cho chiến lược của Trung Cộng. Quan niệm then chốt của lý thuyết này là "tích cực phòng ngự" (jiji fangyu) lấy yếu tố chủ động là chính để có thể vận dụng một lực lượng yếu đánh bại một kẻ thù đông đảo hơn, trang bị mạnh hơn. Ngay từ những ngày đầu tiên của chế độ cộng sản, Mao Trạch Ðông đã nghiên cứu kỹ lưỡng và các đặc tính của chiến tranh trong tương lai, cường và nhược điểm của đối phương và khai triển khía cạnh tích cực phòng ngự thành lý thuyết mà họ gọi là trường kỳ kháng chiến. Dụ địch vào sâu bằng cách dẫn địch theo hướng mình muốn, đưa địch đến chiến trường ta đã chuẩn bị sẵn là chiến thuật căn bản của chiến tranh nhân dân.

Thế nhưng khi đem áp dụng các nguyên tắc của chiến tranh nhân dân vào trận chiến Triều Tiên, lý thuyết chiến tranh nhân dân tỏ ra không hợp thời khi đối phó với một kẻ thù có sức mạnh ưu thế về không quân và hải quân cũng như có tiềm năng sử dụng nguyên tự Thành thử, Bắc Kinh phải bí mật tìm cách chế tạo võ khí hạch tâm, phi đạn, tăng cường sức mạnh quân đội chính qui, hiện đại hóa hệ thống tình báo, tính cơ động và phương pháp tập trung quân lực. Các chiến lược gia Trung Cộng phải từ từ điều chỉnh lại lý thuyết chỉ đạo chiến tranh được đặt dưới tên "chiến tranh nhân dân trong tình huống hiện đại"[27] Căn bản của chiến lược mới gồm ba điểm:

  1. Chiến tranh sắp tới sẽ là chiến tranh qui mô, sử dụng võ khí tối tân.
     
  2. Chiến tranh sẽ leo thang và Trung Quốc sẽ bắt buộc trở thành một bãi chiến trường.
     
  3. Khi bắt đầu kẻ thù sẽ có ưu thế hơn về võ khí nhưng về lâu về dài, chiến tranh nhân dân sẽ thắng.

Chính vì thế, Mao đã nỗ lực xây dựng Ðệ Tam Lộ Tuyến, di chuyển các khu vực kỹ nghệ quan trọng vào sâu trong đất liền vì ông ta tin rằng khu vực duyên hải sẽ bị tàn phá ngay từ đầu. Thành ra, Trung Cộng hoàn toàn không có kế hoạch củng cố hay xây dựng mặt biển mà chỉ chú trọng ở lục địa vì đó sẽ là cơ sở chính tiếp ứng cho việc trường kỳ kháng chiến với đế quốc tư bản.

Tuy nhiên đến đầu thập niên 1960, Trung Cộng lâm vào tình trạng mâu thuẫn với Liên Xô, gây ra tranh chấp kịch liệt về nhận định chiến lược trong nội bộ. Cuộc Cách Mạng Văn Hóa chính là phương tiện mà Mao dùng đẻ thanh trừng tất cả những người nào không cùng chủ trương với ông ta. Mao Trạch Ðông chủ trương một tư thế độc lập với Liên Xô trong khi Lưu Thiếu Kỳ lại muốn đứng chung trong một khối xã hội chủ nghĩa do Nga lãnh đaọ. Sự tranh chấp đó không những đưa tới việc tàn sát lẫn nhau mà còn ảnh hưởng rất nhiều đến vấn đề đối ngoại, nhất là chiến tranh Việt Nam. Việc Việt Nam ngả hẳn theo Liên Xô sau khi chiến tranh chấm dứt đã đưa đến mâu thuẫn nghiêm trọng giữa hai nước và cuộc chiến Việt Trung năm 1979 là cao điểm của thế đối nghịch đó. Năm 1985, Quân Ủy Hội trung ương của Trung Quốc đã chuyển hướng tâm điểm chiến lược của Hồng quân từ mạn bắc xuống mạn nam, thay thế việc đối phó với Liên Xô bằng công tác chuẩn bị chiến tranh khu vực để tranh giành ảnh hưởng. Tương ứng với sự thay đổi đó, Trung Quốc cũng tăng cường lực lượng tại căn cứ Ðam Giang (Zhanjiang) nằm cạnh vịnh Bắc Việt và các căn cứ tại đảo Hải Nam.[28]
 

B. HIỆN TRẠNG CỦA HỒNG QUÂN TRUNG QUỐC

Theo tài liệu của Trung Quốc Thời Báo số ra ngày 13 tháng 3 năm 1993 dưới nhan đề Hướng Ði Mới về quân sự của Trung Quốc (Trung Cộng Quân Sự Tân Ðộng Hướng), số mục chi tiêu của Trung Cộng về quân sự trong 45 năm qua như sau:

Năm Quân Phí (tỉ nhân dân tệ) tăng so với năm trước % ngân sách quốc gia Ghi chú
1951 5.264 2.463 42.97 Chiến tranh Triều Tiên
1953 7.538 1.754 34.24 Gia tăng hải quân Chiết Giang
1955 6.5 .700 24.14 Hợp đồng tác chiến tấn công các đảo ngoài khơi Ðài Loan
1969 12.618 3.218 23.99 Chiến tranh biên giới Trung Xô
1971 16.947 2.423 23.15 Trung Xô giằng co, gia tăng phòng thủ
1979 22.266 5.482 17.48 Chiến tranh Việt Hoa ở biên giới
1989 25.146 3.356 8.34 Thiên An Môn và chiến tranh Trường Sa
1990 29.031 4.031 11.9 Cộng Sản sụp đổ ở Ðông Âu, chiến tranh Trường Sa
1991 33.383 4.355    
1992 37.389 4.006 11.57  
1993 49.00 11.611 11.00 Gia tăng quân sự đối phó với vấn đề Ðài Loan và biển đông


Theo bản báo cáo của Bộ Quốc Phòng chính phủ Ðài Loan năm 1994[29], lực lượng của Trung Cộng hiện nay bao gồm Nhân Dân Giải Phóng Quân, Cảnh Sát Võ Trang và Dân Binh. Theo phương án của Quân Ủy Trung Ương tại Bắc Kinh năm 1991 thì tổng số binh lực họ đã rút từ 3.2 triệu xuống còn 3 triệu người. Hiện nay, lực lượng chính qui của họ là 3 triệu người, cảnh sát võ trang 870,000 người và 700,000 dân binh, tổng cộng khoảng 4.57 triệu.
 

1. Lục quân

Lục quân hiện nay ước chừng 2.2 triệu, chia ra 7 quân khu, 24 quân đoàn, trên 80 sư đoàn bộ binh, trên 20 sư đoàn thiết giáp, trên 30 sư đoàn pháo binh không kể thành phần tiếp liệu và cần vụ. Trung Cộng có chừng 12,000 xe tăng, bao gồm chiến xa 59-2, và 69 làm chủ lực và khoảng 15,000 đại pháo. Lục quân còn được trang bị phi đạn M-9, M-11 là những võ khí mới mà họ đang cố gắng sản xuất và huấn luyện.
 

2. Hải quân

Hiện vào khoảng 350,000 người bao gồm lực lượng phòng vệ duyên hải, thủy quân lục chiến và hải thuyền, được chia ra thành 3 hạm đội Ðông Hải, Nam Hải và Bắc Hải. Trung Cộng hiện có gần 100 tàu ngầm có trang bị đầu đạn nguyên tử Trên mặt biển có khoảng 50 chiến hạm, trên 100 tàu chạy nhanh trang bị phi đạn, 40 tàu đổ bộ và hơn 1000 tàu tiếp liệu. Ngoài ra còn một lữ đoàn thủy quân lục chiến và chừng 1000 phi cơ nhiều loại.
 

3. Không quân

Tổng cộng lực lượng không quân Trung Cộng có chừng 370,000 người bao gồm cả các đơn vị phòng không và các phi đoàn. Tất cả có hơn 40 sư đoàn không quân chủ yếu là dùng để tấn công. Họ có chừng 4000 chiến đấu cơ và 400 oanh tạc cơ, có cả phi cơ mang võ khí nguyên tử, 400 vận tải cơ, và 100 máy bay trực thăng.
 

Lực lượng phi đạn chiến lược

Trung Cộng còn có một lực lượng sử dụng phi đạn chừng 100,000 người có trang bị hai loại phi đạn CSS-4 và CSS-3 có tầm liên lục địa vá CSS-2 có tầm bắn xạ Tổng cộng có chừng hơn 100 phi đạn nguyên tự Họ đang thử nghiệm loại CSS-5 có tầm bắn xa hơn, và công phá mạnh hơn.
 

C. CHIẾN LƯỢC MẶT BIỂN CỦA TRUNG QUỐC HIỆN ÐẠI

Hải quân Trung Quốc ngay từ thời Dân Quốc vẫn theo đuổi một kế hoạch phòng ngự vùng ven biển (cận hải phòng ngự, jinhai fangyu) và việc thay đổi quan điểm binh bị không ảnh hưởng mạnh đến chiến lược này. Chiến lược mặt biển chẳng qua chỉ là một hệ luận của chủ thuyết chiến tranh nhân dân nên biến chuyển tương úng với việc cải tổ binh pháp. Cả tích cực phòng ngự lẫn cận hải phòng ngự đều rút ra từ lý luận của Mao Trạch Ðông.

Ngay từ khi Cộng Sản chiếm được Hoa Lục năm 1949, họ đã ý thức được sự quan trọng của phát triển hải quân khi chính quyền Tưởng Giới Thạch đã triệt thoái thành công lực lượng của họ sang Ðài Loan mà Trung Cộng không ngăn chặn hay truy kích nổi. Ngày mồng 3 tháng 10 năm 1949, năm tiểu đoàn của sư đoàn 61 tấn công vào lực lượng Quốc Dân Ðảng trấn đóng ở đảo Dengbu (Thượng Hải). Nhờ tiếp viện bằng đường bể, quân đội Quốc Dân Ðảng đã đánh bại lực lượng ưu thế của Cộng Sản. Cuối tháng 10, quân cộng sản lại tấn công đảo Kim Môn nhưng cũng thất bại, tổn hại hơn 9000 người. Từ đó, Mao Trạch Ðông càng quan tâm hơn về an ninh mặt biển, gia cường hải quân không phải chỉ để mưu tính đánh chiếm Ðài Loan mà còn có ý đồ trở thành một cường quốc quân sư Mao đã viết:

Chúng ta phải xây dựng một lực lượng hải quân có khả năng phòng ngự vùng duyên hải để chặn đứng sự xâm lăng của đế quốc.

Chiến lược trong giai đoạn này nhằm đối phó với lực lượng Quốc Dân Ðảng trong trường hợp Trung Hoa dân quốc đổ bộ và hạm đội thứ 7 của Mỹ ở Thái Bình Dương. Mao đem lý thuyết chiến tranh nhân dân trên bộ biến chế để áp dụng vào chiến lược mặt biển. Hải quân được tổ chức thành những lực lượng chiến đấu nhỏ, vừa dùng để phòng ngự, vừa dùng để tấn công. Chiến lược đó áp dụng mãi tới khi Mao Trạch Ðông lìa trần. Tuy nhiên, những quân sự gia của Hồng quân vẫn quan tâm đến việc phát triển các loại chiến hạm, tiềm thủy đĩnh và khí giới chiến lược để gia tăng sức mạnh của họ trên mặt biển. Mắc dầu những biến cố chính trị nội bộ, nhất là vụ Cách Mạng Văn Hóa trong thời kỳ 1966-1976 đã làm chậm lại phần nào mưu tính đó, lực lượng hải quân của Trung Cộng vẫn bành trướng đáng kể.

Sau khi Mao chết, tuy Ðặng Tiểu Bình vẫn nhấn mạnh vào chiến lược "tích cực phòng ngự, cận hải tác chiến" (jiji fangyu, jinhai zouzhan) nhưng duyên hải của Trung Quốc nay đã được nhìn dưới góc độ mới. Từ khi họ đem quân chiếm được quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (1974) và một phần quần đảo Trường Sa (1988), cận hải tác chiến có nghĩa là khống chế toàn bộ vùng biển kéo dài từ eo biển Ðài Loan tới tận eo biển Malacca.
 

Thời kỳ Chính sách Nội dung

  • 1950-1975 Duyên hải phòng ngự sử dụng căn cứ trên đất liền Hải quân tuy có trang bị phi cơ, tiềm thủy đĩnh, chiến đấu cơ nhưng chủ yếu vẫn là phòng ngự duyên hải
     
  • 1976-1982 Duyên hải phòng ngự sử dụng căn cứ trên biển Trung Cộng tăng cường thêm tiềm thủy đĩnh, ngư lôi hạm, hộ tống hạm chế tạo từ năm 1969 đến năm 1976
     
  • 1983-2000 Duyên hải phòng ngự, căn cứ trên biển có thể sử dụng đầu đạn nguyên tử Trung Cộng thành công trong việc thử nghiệm hỏa tiễn JL-1SLBM năm 1982. Hỏa tiển này được trang bị trong tàu ngầm 09-2 thực hiện từ năm 1988
     
  • 2000- Liên hiệp căn cứ (trên biển) sử dụng võ khí nguyên tử Trung Cộng tiếp tục chế tạo các loại tiềm thủy đĩnh có mang đầu đạn nguyên tử tầm 8,000km
     

Sự phát triển chiến lược mặt biển của Trung Cộng

Năm 1985, Ðặng Tiểu Bình nhận định là hai siêu cường Nga Mỹ sẽ bận rộn giữ miếng với nhau nên sẽ không quốc gia nào dám tấn công Trung Hoa ít nhất cũng tới năm 2000. Hơn thế nữa, hai siêu cường còn phải nỗ lực ve vãn Trung Quốc và Trung Quốc phải khai thác triệt để cơ hội đó để một mặt canh tân quốc phòng, một mặt lấn chiếm biển Ðông và o ép Ðài Loan. Trung Cộng tuyên bố là họ phải tăng cường để bảo vệ 18,000 km bờ biển và hơn 3,000,000 km2 vùng biển, một lãnh hải rộng gần bằng 1.3 lãnh thổ của họ. Sự giảm thiểu lực lượng của Hoa Kỳ trong hơn hai thập niên qua gián tiếp thúc đẩy Trung Cộng bành trướng xuống phía Nam. Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), chỉ huy trưởng hải quân Trung Quốc đã nhận định như sau:

Vai trò quân sự trên mặt biển ngày càng quan trọng và việc đấu tranh giành quyền làm chủ hải vực giữa các siêu cường ngày thêm gay gắt. Chính vì thế, nhiệm vụ chủ yếu của việc gia tăng công tác quốc phòng là xây dựng một lực lượng hải quân hiện đại ngõ hầu ngăn chặn mọi cuộc xâm lăng, bảo vệ quyền ích quốc gia trên mặt biển.[30]

Tuy nhiên, Trung Cộng cũng e ngại là trong giai đoạn này, hải quân của họ chưa có khả năng đối phó với một trận chiến "bất thình lình, nhanh gọn, trên một vùng lãnh hải rộng lớn, xa đại lục đòi hỏi khả năng phối hợp cả ba loại hải lục không quân". Chính vì quan tâm đó, Trung Cộng tập trung nỗ lực vào việc thủ đắc những kỹ thuật quân sự của Liên Xô bằng cách thuê mướn kỹ thuật gia, mua các loại phi cơ tầm xa và nhất là hàng không mẫu hạm. Trung Cộng biết rằng họ rất khó khăn trong việc làm chủ trên không, và không làm chủ trên không thì không thể làm chủ mặt biển. Trước đây, họ e ngại sự can thiệp của hải quân Liên Xô đang trú đóng tại Cam Ranh thì nay họ lại quan tâm đến vai trò của Hoa Kỳ tại Ðông Á nhất là từ khi mối tương quan Mỹ Hoa trở nên căng thẳng khi Hoa Kỳ cho phép Tổng Thống Ðài Loan Lý Ðăng Huy sang dự buổi họp mặt cựu sinh viên Cornell ở New York trong tháng 6, 1995 vừa qua.

Ngày 19 tháng 7, 1995 Trung Cộng thử một hỏa tiễn địa địa (surface-to-surface), có tầm bắn tới tận Hoa Kỳ trong eo biển Ðài Loan mà các bình luận gia cho là để trắc nghiệm khả năng phòng thủ của chính phủ Quốc Dân Ðảng.[31] Trung Cộng cũng công khai kêu gọi sự triệt thoái toàn bộ quân đội Hoa Kỳ ra khỏi khu vực Thái Bình Dương, một việc mà trước đây không hề có. Sự hiện diện của Mỹ ngày nay không còn là một đối trọng với lực lượng của Liên Xô mà đã trở thành một chướng ngại cho việc bành trướng của Tàu. Có lẽ họ muốn xác định một cách không minh thị là Á Châu là khu vực ảnh hưởng (sphere of influence) của Trung Quốc.

Ðó cũng là dấu hiệu Trung Cộng đã chuyển hướng từ cận hải phòng ngự sang cận dương phòng ngự và lăm le tiến hành viễn dương phòng ngự.[32] Nếu quả thực Hoa Kỳ e ngại về khoảng trống quyền lực ở tây ngạn Thái Bình Dương lọt vào tay Trung Cộng, việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam là một dấu hiệu cho thấy người Mỹ đang tìm lại vai trò quân sự của họ mà lâu nay bị nhu cầu kinh tế làm cho lu mờ.
 

Hải quân Trung Cộng tại biển Ðông

Nam Hải hạm đội của Trung Cộng đảm trách khu vực biển đông, theo nguyên tắc bao gồm cả khu vực Hoàng Sa và Trường Sa. Ðơn vị chủ yếu trú đóng khu vực Quảng Châu, Ðam Giang, Du Lâm có khoảng 700 chiến hạm phần lớn là tàu đổ bộ.

Từ khi bình thường hóa quan hệ với Liên Xô, Trung Cộng không còn phải tập trung lực lượng phòng thủ biên giới phía bắc nên đã điều động tăng cường binh lực ở đông và đông nam, chuyển hướng phòng ngự chiến lược từ đất liền sang các hải đảo. Trung Cộng cũng gia tăng quân phí lên một lức đáng kể vì ngoài ngân sách quốc phòng (khoảng 6 tỉ năm 1993), họ còn các lợi tức mà các đơn vị sản xuất của quân đội đem lại, kể cả sản xuất hàng tiêu dùng đến mở khách sạn cho thuê (khoảng 6 tỉ nữa). Việc bán vũ khí cũng đem lại một số tiền đáng kể (vào khoảng 2 tỉ dollar năm 1993). Ngân sách nghiên cứu vũ khí chiến lược lại không nằm trong ngân sách quân sự. Vì thế nếu tính tổng số, người ta ước lượng ngân sách thực sự mà Trung Cộng dùng vào việc quốc phòng phải từ 12 đến 24 tỉ dollar.[33] Quan trọng hơn nữa là giá trị tiêu thụ của đồng dollar ở Trung Hoa cao hơn nhiều so với Mỹ hoặc Nhật (nghĩa là một đồng tại Trung Hoa có thể mua được nhiều gấp năm, gấp sáu lần ở Mỹ) nên sự đầu tư vào binh bị của họ rất đáng kể.

Trong công tác hiện đại hóa quân sự, việc tăng cường sức mạnh hải quân được coi như ưu tiên hàng đầu. Các loại võ khí chiến lược mới, khu trục hạm, và chiến hạm có mang đầu đạn nguyên tử đều nhằm mục đích thao túng và chiếm lĩnh biển đông.[34] Chủ điểm của họ là tăng cường tính cơ động và tốc độ phản ứng nên sẵn lòng bỏ tiền mua những loại máy bay và tàu chiến. Năm 1995, Trung Cộng đã mua của Liên Xô hai tàu ngầm và vẫn còn đặt mua thêm một số khác. Họ cũng hết sức tìm cách có được hàng không mẫu hạm, không phải chỉ vì tính chất chiến thuật mà coi đó như một biểu trưng của cường quốc trên biển cả. Hồi cuối thập niên 1980, Trung Cộng đã tháo rời một mẫu hạm cũ của Úc bán theo hàng phế thải để học hỏi và nay đang điều đình với hãng Bazan (là hãng Tây Ban Nha đã bán cho Thái Lan một tiểu mẫu hạm hồi tháng giêng 1996). Thế nhưng Trung Cộng muốn tự mình chế tạo hơn là lệ thuộc kỹ thuật vào nước ngoài.[35]
 

1. Lực lượng hải quân Trung Cộng tại biển Ðông

Biển đông đối với Trung Cộng là một khu vực quan trọng về mặt chiến lược. Quang Minh Nhật Báo của tỉnh Quảng Ðông đã viết như sau:

Vì nằm giữa Ấn Ðộ Dương và Thái Bình Dương nên Nam Hải là một vùng chiến lược thiết yếu. Nam Hải là cửa ngõ ra thế giới bên ngoài của lục địa và những đảo ngoài khơi của Trung Quốc. Các quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của ta) nằm giữa thủy lộ nối liền Quảng Ðông, Manila và Singapore nên vị trí địa lý lại càng cực kỳ quan trọng.[36] Việc chiếm cứ các hòn đảo xa xôi này nhằm 3 mục tiêu chính:

  • Yểm trợ các công tác tình báo và thực hiện các dự phóng quân sự trên biển và trên không đối với các khu vực lân cận.
     
  • Kiểm soát và yểm trợ ngư nghiệp và các hoạt động gia tăng sản xuất lương thực, khai thác biển cả và thềm lục địa để tìm kiếm khoáng sản và dầu hỏa.
     
  • Sử dụng làm những căn cứ để liên lạc, quan sát khí tượng và báo cáo, tiếp cứu trên không và trên biển, kiểm soát ô nhiễm
     

2. Thao tác

Hải quân Trung cộng trong những năm gần đây đã chứng tỏ vai trò làm chủ biển đông của họ bằng những lần thao diễn, một phần chuẩn bị cho việc chiến đấu trên đại dương, mặt khác thị uy với những tiểu quốc. Năm 1980, một lực lượng bao gồm 18 chiến hạm đã thao diễn trên một khu vực 8,000 dặm biển tại Nam Thái Bình Dương, trong đó thí nghiệm các loại hỏa tiễn liên lục địa mà họ mới chế tạọ Paul Kennedy đã tự hỏi là phải chăng đây là lần thứ hai mà Trung Hoa biểu dương lực lượng hải quân kể từ khi hạm đội của Trịnh Hòa diệu võ dương oai hồi thế kỷ thứ 15?[37] Hồi tháng 3 năm 1988, sau cuộc chiến tranh với Việt Nam tại Trường Sa không lâu, tướng Trì Hạo Ðiền, Tổng tham mưu trưởng Hồng quân, đã cùng một số viên chức cao cấp của Trung Cộng đi quan sát các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong 8 ngày để đưa ra phương lược tại biển đông. Y ra lệnh cho hải quân Trung Quốc tăng cường phòng thủ và giao trọng trách tiếp ứng cho tỉnh Hải Nam một khi có biến.[38] Sau đây là một số diệu võ dương oai trong vài năm qua.

  • 5.93 Sán Ðầu (Quảng Châu): tập trận giả đổ bộ.
     
  • 7.93 Nam Hải: thao luyện phương pháp chống võ khí nguyên tử, tấn công chớp nhoáng các mục tiêụ Có sự tham dự của các khu trục hạm và hộ tống hạm cùng chiến hạm trang bị đầu đạn nguyên tử.
     
  • 7.93 Ðông Hải: kế hoạch tác chiến 9320 gồm chiến hạm và khoái đĩnh mang đầu đạn nguyên tử.
     
  • 8.93 khu vực Du Lâm, Hải Nam: phối hợp không quân và hải quân trong kế hoạch mang số 9308. Có sự tham dự của 21 chiến hạm và 5 hải thuyền.
     
  • 7.95 phóng 6 hỏa tiễn cách Ðài Loan 85 dặm về hướng bắc.
     
  • 11.95 tập trận đổ bộ trên một hòn đảo cách Ðài Loan 200 cây số.
     
  • 2.96 thao dợt đại qui mô tại Phúc Kiến, ngang eo biển Ðài Loan.
     
  • 3.96 phóng 4 hỏa tiễn tầm trung M-9 tại vùng biển Ðài Loan. Trung Cộng cũng thao dợt trong ba ngày, sử dụng tổng cộng 10 chiến hạm và 10 phi cơ. Hoa Kỳ phải gửi hàng không mẫu hạm Independence, tàu phóng hỏa tiễn Bunker Hill, Mc Clusky và chiến hạm Hewitt tới tuần phòng ngăn ngừa Trung Cộng gây hấn.
     

3. Tranh chấp tại biển Ðông

Tranh chấp quan trọng nhất tại vùng biển đông của Việt Nam (còn gọi là biển Trung hoa hay Nam Trung Quốc Hải) là tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Việt Nam tại vịnh Bắc Việt và quyền sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc đặt tên là Tây Sa và Nam Sa).

  • a. Tại vịnh Bắc Việt (Tonkin Gulf), hai bên không đồng ý trên vấn đề phân định ranh giớị Vịnh Bắc Việt nằm giữa đảo Hải Nam của Trung Quốc và Bắc Việt Nam. Ðộ sâu của vùng biển này từ 60 đến 300 mét và có nhiều triển vọng khai thác dầu hỏa.
     
  • b. Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phía đông Ðà Nẵng (Việt Nam) và nam Hải Nam (Trung Quốc) đã bị Trung cộng chiếm đóng từ năm 1974. Quần đảo này bao gồm hai nhóm, Amphitrite và Crescent. Ngày 4 tháng 5 năm 1993, vệ tinh Nhật Bản đã chụp được một không ảnh về căn cứ quân sự Trung Cộng đã xây trên đảo Woody, trong đó có một phi đạo dài 2500 mét.[39]
     
  • c. Quần đảo Trường Sa trải dài trên 1000 km, cách bờ biển phía đông Việt Nam khoảng 650 km và khoảng 1000 km nam đảo Hải Nam, Trung Quốc, 160 km tây đảo Sarawak, Mã Lai và 100 km phía tây đảo Palawan, Philippines.
     

4. Diễn tiến tranh chấp tại biển đông

a. Vịnh Bắc Việt: Năm 1885, Pháp ký với triều đình Mãn Thanh hòa ước Thiên Tân trong đó có qui định biên giới giữa Ðông Dương (thuộc Pháp) và Trung Hoa. Thế nhưng lúc đó lại không nói rõ hải phận giữa hai bên được chia cắt như thế nào. Những điều ước thương mại về sau ký kết giữa hai bên tuy có nói qua về một vài nguyên tắc tổng quát trên mặt biển nhưng lại chỉ đề cập đến việc ký giấy phép và chính sách thủy lộ mà thôi.

Ðến năm 1977, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đồng ý ngồi lại để quyết định ranh giới trên vịnh Bắc Việt nhưng hai bên không đồng ý về khu vực lãnh hải 12 dặm và 200 dặm giới hạn kinh tế theo qui ước về lãnh hải của Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc thì cho rằng toàn thể khu vực biển phía đông kinh tuyến 108 là thuộc quyền họ. Nếu chia như thế, 2.3 vịnh Bắc Việt thuộc về Việt Nam, còn quần đảo Hoàng Sa là hoàn toàn của Trung Cộng. Văn thư của Bộ Ngoại Giao Việt Nam ngày 16 tháng 3 năm 1979 và bài diễn văn ngày 12 tháng 5 năm 1979 của Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Cộng Hàn Niệm Long đều có đề cập đến vấn đề tranh chấp nhưng không bên nào nêu rõ quan điểm của mình. Người ta cho rằng vấn đề vịnh Bắc Việt bị chìm vào trong những tranh chấp to lớn hơn về các quần đảo ngoài khơi. Tuy nhiên, nhiều vụ chạm súng đã xảy ra giữa hai bên trên vùng biển vịnh Bắc Việt và cả hai bên đều tiến hành thăm dó dầu khí trong khu vực đang còn chưa ngã ngũ.

Hồi tháng 9 năm 1992, Trung Cộng đã ngang nhiên đem tàu đến khoan dầu tại khu vực 19 độ 17 phút bắc vĩ tuyến 18 và 107 độ 16 phút đông kinh tuyến, nghĩa là hoàn toàn nằm trong khu vực mà Trung Quốc đồng ý là thuộc Việt Nam. Trung Quốc cũng bắt giữ nhiều thuyền đánh cá Việt Nam qua lại trong vùng và dời một số mốc địa dư trên vùng biên giới Lạng Sơn.[40]

b. Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa: Không biết quần đảo Hoàng Sa được con người tìm ra từ bao giờ nhưng trong bản đồ của Việt Nam vẽ từ năm Canh Tuất (1490) đời Hồng Ðức triều Lê thánh Tông đã có xuất hiện quần đảo Hoàng Sa. Theo Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư giữa thế kỷ thứ 17 thì quần đảo này dài 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển. Quan quân Việt Nam cũng trú đóng tại đây, hàng năm đến cuối mùa đông thì chúa Nguyễn cho một đoàn thuyền 18 chiếc, chở 70 quân nhân ra ở từ tháng giêng đến tháng 8 mang theo 6 tháng lương thực và giao nạp về những thứ thu nạp như hải sản, vàng bạc, súng đạn đổi từ các thương buôn đi qua.[41]

Theo Ðại Nam nhất thống toàn đồ của Phan Huy chú vẽ dưới triều Minh Mạng (Giáp Ngọ 1834), trong đó có vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa (xem bản đồ đính kèm). Sách cũng có chép quần đảo này gồm hơn 130 đảo to nhỏ (kể cả hai quần đảo làm một) tên là Ðại Trường Sa hoặc Vạn Lý Hoàng Sa hoặc Vạn Lý Trường Sa, dài không biết mấy nghìn dặm chạy từ đông sang nam.

Các quan quân cử ra coi sóc việc trấn thủ và thu thuế ở các hải đảo này gọi là Ðội Hoàng Sa, thường là người tình nguyện trong các địa phương thuộc Bình Thuận, Cảnh Dương. Trong thời gian chiến tranh, hoạt động của đội Hoàng Sa bị gián đoạn nhưng từ năm 1787, vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc lại tái lập, thăng cai hợp Phan Cảnh Hữu, người xã Phú Nhiêu lên chức cai đội trông coi việc quản trị các hải đảo. Năm 1803 vua Gia Long cũng dùng lại những người của triều Tây Sơn làm đội Hoàng Sa.

Trong An Nam đại quốc họa đồ của giám mục Tabert vẽ năm 1838, tận cùng bên phải cũng có vẽ quần đảo Hoàng Sa với ghi chú là Paracel (Cát vàng), rõ ràng là một bộ phận của nước ta không khác gì Pulo Condor (Côn nôn) hay Pulo Panjang (Thổ Châu), Pulo Ubi (Hòn Khoai) ... là những địa danh cũng có ghi trên bản đồ này còn tồn tại đến ngày nay.[42] Về phương diện trắc họa, bản đồ Tabert vẽ tương đối chính xác khoảng cách quần đảo Hoàng Sa và bờ biển phía đông. Ngoài ra, tất cả những bản đồ cổ khác của người Âu Châu vẽ đều có vẽ chi chít nhiều đảo nhỏ tượng trưng cho những tiểu đỏa tại biển đông và đều vẽ cận kề Việt Nam, minh thị những đảo này là một phần lãnh thổ nước ta.

Về mặt lịch sử, hầu như không quốc gia nào để ý đến các quần đảo này ngoài Việt Nam. Năm 1753, hai người lính cơ trong đội Hoàng Sa trong công tác chẳng may bị gió thổi giạt vào Quỳnh Châu, nhà Thanh cho trả về Ðàng Trong. Một lần khác, tàu buôn Anh cát Lợi bị cướp biển nhũng nhiễu có gửi thư lên Thanh đình bắt đền, nhà Thanh trả lời vùng đó thuộc Việt Nam muốn gì liên lạc triều đình Việt Nam. Thành ra cho đến đầu thế kỷ 20, Việt Nam hoàn toàn làm chủ và chịu trách nhiệm về các quần đảo ấy. Các quan chức Việt Nam ngoài việc trú phòng còn làm cả công việc thám sát, đo đạc và vẽ bản đồ quân sự, dựng những mộc bài (bảng gỗ) làm dấu. Năm 1836, quan ta là Phạm quang Ảnh cho dựng 10 bảng gổ.

Thời Pháp thuộc, người Pháp cũng cho binh lính thủ ngự, khai thác hải sản đặc biệt là phân chim (phosphate) thu hoạch hàng trăm ngàn tấn mỗi năm. Khi Pháp trao trả độc lập, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa và Hải quân Việt Nam thay thế quân đội Pháp trấn giữ.[43]

Trong thời kỳ đệ nhị thế chiến, sau khi Nhật đầu hàng Ðồng Minh, quyền tiếp thu Việt Nam được giao cho Trung Hoa và Anh thực hiện. Nhân dịp này, chính quyền Tưởng giới Thạch có công bố những quần đảo trong vùng Nam Hải (tức biển Ðông của Việt Nam) là lãnh thổ Trung Hoa.[44] Các tên Trung Sa, Ðông Sa, Nam Sa, Tây Sa đẻ ra từ đó. Vào thời kỳ ấy, Việt Nam còn đang đấu tranh giành độc lập, các chính quyền quốc gia chưa ổn định nên cũng không quan tâm nhiều về việc nhận vơ ấy. Vả lại, chính Trung Hoa cũng đang còn phải giải quyết vấn đề Quốc Cộng nên cũng không có hành động nào cụ thể lấn chiếm các hòn đảo này. Và chả cứ gì vài hòn đảo vô danh ở ngoài khơi, Trung Hoa còn công khai tuyên bố nhiều quốc gia khác trong đó có cả bán đảo Ðông Dương,[45] Thái Lan, Triều Tiên là những thuộc quốc cũng thuộc về họ cả. Họ mập mờ đánh lận giữa những quốc gia trong thời phong kiến triều cống và thần phục với những chư hầu theo kiểu phiên trấn do vua Tàu ban cho.

Ngoài những văn kiện chính thức và liên tục chứng tỏ chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo ở biển đông từ thời tự chủ đến thời Pháp thuộc, Thủ tướng Việt Nam, ông Trần Văn Hữu trong bản tuyên bố đọc tại hội nghị San Francisco ngày 6 và 7 tháng 9 năm 1951 đã long trọng xác quyết trước đại biểu thế giới:

... Và cũng vì cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.[46]

Lời tuyên bố đó không ai trong và ngoài hội nghị phản đối cả.

Tới năm 1954, sau khi tiếp thu từ người Pháp, hải quân Việt Nam đã trú đóng và thiết lập một đài khí tượng nhỏ trên đảo Pattle ở Hoàng Sa. Năm 1956, Trung Cộng đem quân chiếm đảo Boisée (Woody) cách Pattle 50 hải lý về phía Bắc. Từ đó những đảo mạn Ðông Bắc thì hải quân Trung Hoa giữ, mạn Tây Nam do hải quân Việt Nam giữ.[47]

Trước đó, vào tháng 5-1950, Trung Cộng trong quan hệ ngoại giao với Phi luật Tân có minh xác chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Khi ấy, tổng thống Phi Elpidio Quirino đã khẳng định là không thể để cho chủ quyền các hòn đảo này vào tay địch vì như thế sẽ uy hiếp an ninh cho quốc gia Phi luật Tân. Nhân Dân nhật báo tại Bắc Kinh đã thóa mạ Phi là tay sai của đế quốc Mỹ và hăm dọa "nếu Mỹ Phi tiếp tục duy trì quan điểm đó sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng"[48]. Tháng 8-1951, các quốc gia Ðồng Minh họp tại San Francisco ký với Nhật Bản một hiệp định qui định việc tiếp thu các cơ sở của Nhật trên biển Thái Bình Dương. Vì vấn đề Trung Hoa có hai chính phủ nên không được mời tham dự. Trong hiệp ước này có đề cập việc Nhật Bản phải trả lại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng không nêu rõ là trả cho ai. Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai hậm hực phát biểu:

Tây sa, Nam sa quần đảo cũng chẳng khác gì Ðông sa, Trung sa quần đảo đều là lãnh thổ Trung Quốc. Trước đây đế quốc Nhật có chiếm đóng thì nay phải trả lại cho Trung quốc. Chủ quyền của Trung quốc với các quần đảo Tây sa (Hoàng sa), Nam Sa (Trường sa), Mỹ Anh có nói đến (trong hiệp định San Francisco) hay không nói đến cũng chẳng ảnh hưởng gì! [49]

Tháng 2-1959, nghe tin Trung Cộng lấn chiếm đảo Duncan (thuộc quần đảo Hoàng Sa), trợ chiến hạm HQ-225 của Hải quân Việt Nam cùng 5 chiến hạm khác và 1 đại đội Thủy Quân Lục Chiến được đưa ra, đổ bộ lên bắt 32 tù binh Trung Cộng chở về Ðà Nẵng thẩm vấn nhưng sau lại trả về Hoàng Sa. Từ đó Việt Nam để 1 đại đội Thủy quân Lục Chiến trú đóng trên các đảo Duncan, Robert và Drummond đồng thời cho một pháo hạm tuần tiểu vòng quanh để đề phòng bất trắc.[50]

Thành ra, cho tới năm 1974, Trung Cộng chỉ chiếm đóng vài đảo nhỏ trong quần đảo Hoàng Sa, còn gần như toàn bộ các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam, có quân đội bố phòng khai thác tài nguyên. Một phần vì Ðệ Thất hạm đội của Mỹ thường xuyên tuần tiễu, phần khác chiến tranh Việt Nam ngày càng lên cao, Trung Cộng không muốn trực tiếp đối đầu với Hoa Kỳ. Từ 5- 1959 đến 12-1971, Bộ Ngoại giao Trung Cộng lên tiếng hơn 200 lần về chủ quyền của họ kết án Mỹ dùng phi cơ và chiến hạm xâm phạm hải phận nhưng tuyệt nhiên không dám động binh.

Tháng 7-1971, Phi luật Tân một lần nữa minh xác chủ quyền trên quần đảo Spratly (Trường Sa), tuyên bố đã trấn giữ nhiều hòn đảo ở phía Ðông. Ngày 16-7-1971, Hoàng vĩnh Thắng, Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Cộng trong một bữa tiệc tiếp Bắc Hàn lại xác quyết "Tây Sa và Nam Sa là của Trung Quốc"[51].

Tới tháng 9-1973, Việt Nam Cộng Hòa, trong kế hoạch khai thác dầu hỏa ngoài khơi đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào địa phận tỉnh Phước Tuy. Bộ Ngoại Giao Trung Cộng ngày 11-1-1974 ra thông cáo lên án Việt Nam và 4 ngày sau, hải quân Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Sau 5 ngày kịch chiến, lực lượng Việt Nam bị đánh bại, một số bị bắt làm tù binh, một số chiến hạm bị đánh đắm. Trung Cộng hoàn toàn làm chủ Hoàng Sa. Quốc tế đều lên án Cộng Sản Trung Hoa dùng võ lực xâm lăng một nước khác. Pháp cung cấp nhiều tài liệu quan trọng trong chứng minh về sự hiện hữu của chính quyền và nhân dân Việt Nam trên các khu vực này.

Hải quân Việt Nam lập tức được điều động đến các hòn đảo còn lại trên quần đảo Trường Sa, cắm cờ trên các hoang đảo ngoài khơi dọc theo bờ biển. Ngày 4-2, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng lại lên tiếng: "Nam Sa quần đảo, Tây Sa quần đảo, Trung Sa quần đảo và Ðông Sa quần đảo đều là lãnh thổ Trung Quốc. Chủ quyền của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa trên các hòn đảo và hải vực phụ cận không ai có thể chối cãi"[52]

Tháng 4-1975, Bắc Việt chiến thắng miền Nam cũng ra tiếp quản các hải đảo còn lại. Tháng 9-1975, Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất của Cộng Sản Việt Nam trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh chính thức đề cập Trung Quốc phải trả lại các hải đảo cưỡng chiếm trước đây. Tuy nhiên, Trung Cộng bác bỏ đề nghị đó.

Trong nhiều năm, vì vấn đề nghiên cứu thềm lục địa, Trung Cộng và các quốc gia Việt Nam, Phi luật Tân, Mã Lai Á có nhiều tranh biện về chủ quyền của quần đảo Trường Sa.

  • Ngày 14-6-1976, Trung Cộng chống đối Phi Luật Tân về việc tìm kiếm mỏ dầu tại ngoài khơi Tây Nam.
     
  • Ngày 26-9-1979, Trung Cộng lên án tổng Thống Marcos cho sáp nhập vùng hải phận Trường Sa vào bản đồ Phi.
     
  • Ngày 30-1-1980, một năm sau ngày Trung Việt chiến tranh, hai bên tiếp tục tranh luận về chủ quyền, khi thì bằng văn thư chính thức, khi thì bằng báo chí, Trung Cộng lại đưa ra một văn kiện khác xác quyết chủ quyền trên các quần đảo ngoài khơi biển Ðông. - Tháng 9-1983, Mã Lai chiếm một hòn đảo Nam Trường Sa, gây ra những phản đối cả từ 3 phía Phi, Việt, Hoa.
     
  • Việt Hoa tiếp tục công kích lẫn nhau từ 1984 đến 1988. Ngày 14 tháng 3 năm 1988, một lần nữa Trung Cộng đem quân tới chiếm Trường Sa, đụng độ với Hải quân Việt Nam, chiếm được vài hòn đảo nhọ Việt Nam phải tăng cường phòng thủ trên mặt biển cũng như tại quần đảo Trường Sa.

Nguyễn Duy Chính

(Xem tiếp phần II) (Phụ lục)