SỬ-LIỆU BIÊN-GIỚI GIỮA TA VÀ TÀU:

TỪ CỬA NAM-QUAN ÐẾN ẢI CHI-LĂNG,
CHÂU ÔN VÀ NÚI PHÂN-MAO

Hà Mai-Phương & Lưu-Chu Thanh-Tao
 

Lời Dẫn-Nhập:

Tới nay, trước áp-lực của Trung-Cộng nhà cầm quyền Hà-Nội không thể che-dấu được những nhượng-bộ đất-đai vùng biên-giới và lãnh-hải giữa hai nước qua những thỏa-ước mà đảng Cộng-sản Việt-Nam đã thảo-luận và ngấm-ngầm ký-kết với Trung-Cộng mà không hề công-bố toàn-thể bản văn cho toàn-dân Việt-Nam được biết, theo đó thỏa-ước về biên-giới Việt-Trung ký ngày 30 tháng 12 năm 1999 và Thoả-ước về Vịnh Băc-Bộ ký ngày 25 tháng 12 năm 2000. Từ cuối năm 1999, nhà văn Dương Thu-Hương trong bài phỏng-vấn của đài Phát-thanh RFI đã cảnh-giác rằng sau trận chiến-tranh dạy cho nhau những bài học ở biên-giới Việt-Trung năm 1979, các nhà lãnh-đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam đã quá sợ-hãi quan thày và đã ngấm-ngầm nhường cho Trung-Cộng nhiều phần đất-đai dọc biên-giới hai nước với chiều dài khoảng 1.300 km và nhiều nơi Trung-Cộng lấn sâu vào nội-địa nước ta khoảng 3 cây-số. Công-luận của con dân Việt-Nam ở trong nước cũng như ở hải-ngoại rất công-phẫn về hành-vi rước voi về giày mồ và bán đất-đai của Tổ-tiên cho ngoại-bang. Trước đây, năm 1541, theo Khâm-định Việt-sử Thông-giám Cương-mục, Mạc Ðăng-Dung và cháu là Mạc Văn-Minh cùng bày-tôi là bọn Nguyễn Như-Quế hơn 40 người, tự buộc dây thừng vào cổ, đi chân đất, qua cửa Nam-Quan, quỳ lạy, phủ phục trước quân Minh, khúm-núm dâng biểu xin hàng, nộp trình sổ sách đất-đai cho quân Tàu để mong nắm giữ được vương-quyền và thủ lợi riêng tự. Ngày nay, các Mạc Ðăng-Dung tân thời dùng phản-lực-cơ sang chầu hầu Thiên-triều, được đón tiếp hết sức niềm-nở và cùng nhau ca-tụng tình hữu nghị giữa hai nước bằng cách cắt đất-đai ở vùng biên-giới và nhường phần lớn lãnh-hải thuộc vùng vịnh Bắc-Việt rộng lớn của Tổ-tiên ta để trả ơn cho các quan thày đã có công hỗ-trợ đảng Cộng-sản Việt-Nam từ buổi ban đầu. Dư-luận của những con dân Việt-Nam trong nước và ngoài nước bất-bình nhất về những quyết-định đơn-phương của đảng Cộng-sản Việt-Nam. Từ nay nước ta không còn được kể tới chiều dài tượng-trưng của đất nước từ ải Nam-Quan cho tới mũi Cà-Mau nữa ! Ðể tìm-hiểu chi-tiết hơn về một phần đất cửa ngõ nước ta với Trung-quốc ở biên-giới Lạng-Sơn, bài viết sau đây trình-bày những sử-liệu ở trong các sách cũ của tiền-nhân ta Từ cửa Nam-Quan đến ải Chi-Lăng, Châu Ôn và núi Phân-Mao.

 

CỬA NAM-QUAN

Theo Ðịa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ [của Ngô Vi-Liễn, Phạm Văn-Thư và Ðỗ Ðình-Nghiêm, Nhà in Lê Văn-Tân xuất-bản, Hà-Nội, 1926], cửa Nam-Quan ở ngay biên-giới Trung-quốc và Việt-Nam. Kể từ Hà-Nội lên đến tỉnh-lỵ Lạng-Sơn là 150 km; đến cây-số 152 là chợ Kỳ-Lừa; đến cây-số 158 là Tam-Lung; đến cây-số 162 là Ðồng-Ðăng; đến cây-số 167 là cửa Nam-Quan đi sang Long-Châu bên Tàu. Như vậy từ Ðồng-Ðăng lên cửa Nam-Quan có 5 km; từ Kỳ-Lừa lên Nam-Quan mất 15 km [về phía tây-nam chợ Kỳ-Lừa có động Tam-Thanh, trước động Tam-Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô-Thị là những danh-thắng của tỉnh Lạng-Sơn] và từ tỉnh-lỵ Lạng-Sơn lên Nam-Quan là 17 km. Theo Ði thăm Ðất Nước của Hoàng Ðạo-Thúy [Nhà Xuất-bản Văn-hoá, Hà-Nội, 1976], Ðồng-Ðăng cách biên-giới Trung-quốc 4 km. Nơi đây có Hữu-Nghị Quan của Trung-quốc.

Về cửa hay ải Nam-Quan, theo Phương-Ðình Dư-địa-chí của Nguyễn Văn-Siêu [bản dịch của Ngô Mạnh-Nghinh, Tự-Do xuất-bản, Saigon, 1960], đời Hậu-Lê trở về trước gọi là cửa Pha-Lũy [hay Pha-Dữ], ở về phía bắc châu Văn-Uyên (1), trấn Lạng-Sơn. Từ châu Bằng-Tường [tỉnh Quảng-Tây] bên Trung-quốc muốn vào nước An-Nam [tức nước ta] phải qua cửa quan này. Theo Cương-mục, cửa Pha-Lũy chính là cửa Nam-Quan ở xã Ðồng-Ðăng thuộc huyện Văn-Uyên [xưa là Văn-Châu hay Châu Văn], tỉnh Lạng-Sơn. Từ đời Lê trung-hưng, người Tàu gọi cửa Pha-Lũy là Trấn-Nam Quan; còn ta thì quen gọi là của hay ải Nam-Quan.

Theo Ðại-Nam Nhất-Thống-Chí, Trấn Nam Quan thuộc nội-địa nuớc Tàu, dựng dưới đời vua Gia-Tĩnh [1522-1566] nhà Minh. Năm 1726, dưới đời nhà Thanh, niên-hiệu Ung-Chính thứ-ba, quan Án-sát tỉnh Quảng-Tây là Cam Nhũ-Lai có cho tu-bổ lại cửa quan này. Cửa này dài 110 trượng [khoảng 50m], có đề ba chữ Trấn-Nam Quan --- nghĩa là cửa quan để phòng giữ [trấn] ở phương Nam [hay người phương Nam]. Bên trong cửa này --- vẫn thuộc nội-địa Trung-quốc --- có đài Chiêu-Ðức và đình Tham-Ðường là nơi đón tiếp sứ-bộ nước ta mỗi khi sang Tàu công-cán và cũng là nơi sứ-bộ Trung-quốc nghỉ-ngơi trước khi qua cửa quan này để sang nước ta (2). Ðối-diện với Trấn-Nam Quan, thuộc xã Ðồng-Ðăng và xã Bảo-Lâm thuộc châu Văn-Uyên, trấn Lạng-Sơn có đài Ngưỡng-Ðức của nước ta, là nơi đón tiếp sứ-bộ Trung-quốc qua ta công-cán. Ngưỡng-Ðức Ðài này trước lợp bằng cỏ; năm 1774, Ðốc-trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng-Ðang cho tu-sửa, xây lại bằng gạch. Về việc sửa sang đài Ngưỡng-Ðức, văn bia của Nguyễn Trọng Ðang ghi khắc có đoạn như sau: ... Ðài [Ngưỡng-Ðức] không biết dựng tự năm nào; hình như mới có từ khoảng niên-hiệu Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Hòa, đời vua Lê Trang-Tông ở nước ta. Ðài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ; sửa chữa qua-loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta trung-hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh-tý, ngang với năm thứ 44 niên-hiệu Càn-Long nhà Thanh; Ðang tôi [Nguyễn trọng-Ðang] làm chức Ðốc-trấn [Lạng-Sơn], trải qua 5 năm là năm Giáp-thìn; sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoằng-tráng...

Theo Phương-Ðình Dư-Ðịa-Chí, cửa Nam-Quan, tùy theo từng triều-đại mà còn có những tên gọi khác như Ðại-Nam Quan, Trấn-Di Quan, cửa Nam-Giao (3). Năm 1541, Mạc Ðăng-Dung và bày tôi qua cửa Nam-Quan xin hàng nhà Minh, bấy giờ cửa ải này có tên gọi là Trấn-Man Quan.

Trấn-Nam Quan -- hay ải Nam-Quan -- thuộc địa-giới châu Bằng-Tường [tỉnh Quang-Tây bên Tàu], đối-diện với các xã Ðồng-Ðăng và Bảo-Lâm thuộc châu Cao-Lộc [Văn-Uyên cũ], tỉnh Lạng-Sơn của ta. Hai bên cửa ải là núi đá cao ngất. Cửa ải Nam-Quan luôn-luôn khóa kín, chỉ mở khi có việc thông sứ chính-thức giữa hai nước. Theo Bắc-Thành Dư-Ðịa-chí [của Lê Ðại-Cương] ở về phía bên phải cửa Nam-Quan có nhiều ải nhỏ như Ải Bang [ở châu Lộc-Bình], ải Tầm-Bang [ở xã Tam-Lộc], Ải Kiệm [ở xã An-Khoái], ải Na-Chi [ở xã Xuất-Lễ], ải Khấu-Sơn [ở xã Cần-Lua], Ải Du [hay cửa Du-Thôn ở xã Bảo-Lâm] và ở về phía bên trái cửa Nam-Quan có các ải Bố-Sa, Sơn-Tử [ở xã Tiên-Hội], ải Học-Mô [ở xã Hành-Lư], ải Bản Dương, Bản Quyên [ở xã Lạc-Khư], ải Nguyên-Anh, Bình-Công [ở xã Khánh-Môn], ải Bình-Nhi [ở xã Cửu-Dương]; thuộc châu Thất-Tuyền có các ải Bắc-Bố, Khấu-Trung [ở xã Nghĩa-Ðiền], ải Ba-Tạm, Cảm-Môn [ở xã Cụ-Khánh], ải Na-Mân, Khô-Thịnh [ở xã Nghĩa-Khản], ải Kiều-Lễ, Kiều-Lân [chưa rõ ở xã nào], ải Cốc-Ngoa. [ở xã Bình-Lục], Ải Hoa, Ải Mộ [ở xã Nông-Ðồn]. Ðối-diện với các ải của ta, bên đất Trung-quốc cũng có những cửa ải của họ. Các cửa ải này có tính-cách phòng-thủ, quân-sự và không dùng trong việc giao-thông giữa hai nước Việt--Trung (4).

Riêng về cửa ải Du-Thôn [ở xã Bảo-Lâm, châu ao-Lộc -- châu Văn-Uyên cũ -- tỉnh Lạng-Sơn], phía bắc giáp thôn Ðiếu-Sách [thuộc châu Thượng-Thạch bên Trung-quốc]. Từ cửa ải Du-Thôn đến cửa Nam-Quan đi đường núi độ 2 canh rưỡị Theo Phương-Dình Dư-Ðịa-Chí, phàm tống-đạt công-văn việc thường [không khẩn-cấp], trao trả tội-phạm và khách thương [buôn-bán] đi lại giữa Ta và Tàu đều do cửa nàỵ Theo Ðại-Nam Thực-lục, sau khi thống-nhất đất nước [năm 1802], vua Gia-Long vẫn theo lệ cũ của đời nhà Lê cho thi-hành những thủ-tục điều-hành công-vụ ở cửa Du-Thôn. Giấy thông-hành qua cửa Du-Thôn phải có đóng ấn [hay dấu] Văn-Uyên Châu Quảng-Úy-Sứ Ty Chi Ấn. Còn các giấy tờ, công-văn ở địa-phương Văn-Uyên giao-thiệp với Trung-quốc thì dùng ấn Văn-Uyên Tấn Khẩu [nghĩa là dấu của Cửa quan châu Văn-Uyên]. Năm 1802, vua Gia-Long cho đổi chức Quảng-Úy-Sứ ra là Thủ-Hiệu và cho đúc ấn đồng, khắc chữ triện, gồm các chữ: Văn-Uyên Châu Thủ-Hiệu Chi Chương [nghĩa là vị Thủ-Hiệu phụ-trách giấy tờ của châu Văn-Uyên]. Bấy giờ cửa Du-Thôn phụ-trách bởi hai viên Chánh và Phó Thủ-Hiệu và hai hiệu quân [tức hai đơn-vị quân-đội biên-phòng].

Thời Pháp-thuộc, người Pháp gọi cửa Nam-Quan là Porte de Chine, nghĩa là cửa ngõ Trung-quốc. Tên này được thấy ở các hình bưu-thiếp [carte postale] của họ trước năm 1945. Sau năm 1954, Mao Trạch-Ðông đổi gọi cửa Trấn-Nam là Mục-Nam Quan. Theo Hán-tự, chữ mục có nghĩa la mắt; ngụ ý đây là cửa quan nhìn về phương Nam [với con mắt tỏ sự tin cậy người đồng-chí ở phương Nam !]. Còn nhà cầm quyền Hà-Nội thì đổi gọi là cửa Hữu-Nghị đề tỏ tình môi hở răng lạnh với Trung-quốc vĩ-đại !

Cửa Nam-Quan từng là nơi diễn ra và chứng-kiến nhiều cảnh tang-thương và hùng-tráng trong suốt thời-gian của Việt-sử nghĩa là từ thời nước ta lập quốc cho tới naỵ Năm 40 Tây-lịch Hai Bà Trưng khởi-nghĩa chống lại ách đô-hộ của nhà Ðông-Hán, Nam-Quan đã là cửa ngõ xâm-lược của danh-tướng Mã-Viện. Tới đời nhà Thanh gần đây, trong bài Trùng-tu Nam-Quan Ký của Tuần-phủ Lý Công-Phất còn nhắc tới việc này như sau: ... Nam-Quan trông sang Giao-Chỉ --- tức nước ta thời Ðông-Hán --- thật là hiểm-yếu, ở đó có cột đồng Mã-Viện (5). Thời nhà Minh xâm-lăng đô-hộ nước ta, năm 1406, ông Nguyễn-Trãi theo cha là Nguyễn Phi-Khanh bị bắt sang Tàu cùng cha con Hồ Quý-Ly. Tại ải Nam-Quan, Nguyễn-Trãi đã vâng nghe theo lời cha ghi nhớ hận Nam-Quan và sau này phò Bình-Ðịnh-Vương Lê-Lợi đánh đuổi được quân Minh, thu-hồi lại nền tự-chủ cho nước nhà. Nhục Nam-Quan khác là hành-động ươn-hèn của Mạc Ðăng-Dung và bày-tôi đã quỳ gối dâng biểu, dâng đất xin hàng nhà Tống vào năm 1541 để bảo-vệ quyền-lực cho dòng họ nhà Mạc --- chẳng khác gì việc dâng đất biên-giới Việt-Trung và lãnh-hải ở vịnh Bắc-Việt của Ðảng Cộng-sản Việt-Nam hiện nay qua những hiệp-ước về biên-giới với Trung-Cộng. Ngược lại, Nam-Quan cũng đánh dấu nhiều chiến công huy-hoàng của dân-tộc Việt bất-khuất như năm 40 Thái-thú Tô-Ðịnh bị nghĩa-quân của Hai Bà Trưng đánh đuổi phải bỏ chạy về Tàu qua ngả Nam-Quan. Năm 981 vua Lê Ðại-Hành đã chém đầu Hầu-Nhân-Bảo và đánh đuổi tàn quân nhà Tống ở cửa Nam-Quan. Ðời nhà Lý, năm 1060, quân xâm-lược nhà Tống lại bị chận đánh ở Nam-Quan và Lạng-Châu tức Lạng-Sơn. Bấy giờ Châu-mục Thân Thiệu-Thái từng đánh sang Châu Ung bên Trung-quốc bắt sống Chỉ-huy-sứ Dương Bảo-Tài, chưa kể sau đó là các chiến-công phá Tống oanh-liệt của Lý Thường-Kiệt nữa. Ðời nhà Trần, năm 1285 Trấn-Nam-Vương Thoát-Hoan phải nhục-nhã chui vào ống đồng trốn chạy về Tàu qua ải Pha-Lũy tức Trấn-Nam-Quan. Năm 1427, Liễu-Thăng bị phục-binh của nghĩa-quân Bình-Ðịnh-Vương Lê-Lợi chém chết ở Ðảo-Mã-Pha thuộc ải Chi-Lăng -- ở về phía nam cửa Nam-Quan khoảng 50 km --- và tàn quân Minh cũng phải theo cửa Nam-Quan mà trốn chạy về nước. Cảnh này lại tái-diễn sau chiến-thắng oanh-liệt của vua Quang-Trung Nguyễn-Huệ ở Ðống Ða vào mùa xuân năm Kỷ-dậu 1789. Tàn-quân nhà Thanh của Tôn Sĩ-Nghị cũng lũ-luợt chạy qua cửa Nam-Quan để thoát về Tàu.

Từ thời Pháp-thuộc, dựa theo bức họa của Eug. Burnand vẽ năm 1887, biên-giới hai nước Trung--Việt ở Nam-Quan ngăn cách bởi một bức tường thành, ở giữa có cửa thông sang Trung-quốc và hai bên là hai ngọn núi khá cao. Trải qua những trận chiến Pháp-Hoa ở vùng biên-giới Lạng-Sơn, bức tường thành và cửa ngăn cách biên-giới hai nước nay không còn nữa. Còn bưu-thiếp của Collection de lUnion Commerciale Indochinoise lưu-hành khoảng đầu thế-kỷ XX cho thấy một cửa Nam-Quan sát chân núi khá cao; ngoài cửa chính có lính canh gác và còn có một cửa phụ ở bên cạnh và phía sau cửa ải có một tòa nhà lầu ở lưng-chừng núi. Cũng vì chiến-tranh Pháp và Việt-Minh, cửa Nam-Quan này nay không còn. Trước năm 1945, theo Nhiếp ảnh-gia Nguyễn Huy-Trực, thân-phụ ông là chủ-nhân Nhà thuốc Tây đầu-tiên ở tỉnh-lỵ Lạng-Sơn và thuở thiếu-thời ông trưởng-thành ở tỉnh Lạng. Ông cho biết ông và bạn có lần dùng xe đạp qua cửa Nam-Quan sang đất Bằng-Tường để mua pháo Tết vì ở đấy có nhiều loại pháo và rẻ hơn ở tỉnh-lỵ Lạng-Sơn. Bấy giờ ở cửa Nam-Quan có một đồn lính cửa Pháp và bên kia biên-giới thì có đồn binh của người Tàu. Cửa ải Nam-Quan không còn; chỉ cần đi qua cây gậy chắn ngang biên-giới là sang đất Tàu. Vì ông và bạn bấy giờ còn nhỏ tuổi nên qua lại đồn canh ở biên-giới Nam-Quan không bị xét hỏi giấy tờ gì cả ! Từ Ðồng-Ðăng lên Nam-Quan lác-đác có ít nhà nhỏ xây bằng gạch. Gần đồn lính của Pháp ở Nam-Quan thì có vài hàng quán nhỏ dành cho khách đi đường, lính-tráng trong đồn hoặc một ít người tài-xế lái xe vận-tải hay những người làm nghề khuân vác [mà ngày nay họ được gọi là dân cửu vạn] lẩn-quẩn ở đó chờ đêm xuống lẻn qua biên-giới sang Tàu để khuân hàng lậu về nước ta để kiếm tiền. Từ biên-giới Nam-Quan sang Bằng-Tường cũng vậy, nhà cửa thưa-thớt chứ không có phố-sá gì cả. Trong sách Việt-Nam Ðất Nước Mến Yêu [Văn-hoá Xuất-bản, Montréal, Canada, 1984] của sử-gia quá-cố Nguyễn Khắc-Ngữ có tấm hình về tòa nhà lầu ba tầng ở cửa Nam-Quan. Toà lầu này kiến-trúc theo lối tân-thời của người Tàu xây-dựng từ sau năm 1949 là năm Mao Trạch-Ðông kiểm-soát được toàn-thể Trung-Hoa lục-địa. Gần đây, anh Nguyễn Tiến-Tâm -- con trai nhiếp-ảnh-gia Nguyễn Huy-Trực -- có bức hình chụp năm 1996 bên điếm canh nhỏ của Việt-Nam ở ngay sát đường biên-giới hai nước trước cửa Nam-Quan; sau lưng anh Tâm là cây gậy chắn ngang biên-giới hai nước và toà nhà lầu Mục-Nam-Quan của Trung-quốc. Theo các nhân-chứng năm 2001, đồn canh nhỏ của Việt-Nam đã bị rời sâu vào trong nội-địa nước ta và từ đồn canh ấy không còn nhìn thấy hình-bóng toà lầu Mục-Nam-Quan nữa.
 

ẢI CHI-LĂNG

Theo Ði thăm Ðất Nước [của Hoàng Ðạo-Thúy], thành Chi-Lăng ở vào cây-số thứ 109 tính từ Hà-Nội và tới cây-số thứ 154 thì tới tỉnh lỵ Lạng-Sơn. Theo Ðịa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ, đường xe lửa từ tỉnh Bắc-Giang lên Lạng-Sơn, tới cây-số thứ 110 là ga Tuần Muội [sau người Pháp đọc nhầm là Thanh-Muội] thuộc tổng Quang-Lang, Châu Ôn, tỉnh Lạng-Sơn. Tuần-Muội ở về phía tây-nam và cách tỉnh-lỵ Lạng-Sơn khoảng 37 km. Tại tổng Quan-Lang còn dấu-tích thành cổ và ải Chi-Lăng nổi tiếng trong Việt-sử ở xã Chi-Lăng [thuộc huyện Chi-Lăng tức Châu Ôn cũ]. Cổ-thành Chi-Lăng do quân Minh đắp trong thời-gian xâm-luợc nước ta, chu-vi 154 trượng và cao 5 thước ta (6), nay chi còn nền cũ. Ở gần Cửa Nam của thành này còn phiến đá khắc 5 chữ Hoàng tráng nhị thập đội [nghĩa là: nơi trú đóng của đội quân Hoàng tráng thứ hai-mươi]. Tại xã Chi-Lăng cũng hiện còn dấu-tích ải Chi-Lăng và cửa Quỷ-Môn. Sách Vân Ðài Loại Ngữ của Lê Qúy-Ðôn dẫn sách Hoàn Vũ Ký của Trung-quốc cho biết cửa ải này ở về phía nam huyện Bắc-Lưu [thuộc châu Uất-Lâm, tỉnh Quảng-Tây bên Tàu] và cách huyện-ly Bắc-Lưu khoảng 30 dặm. Tại cửa quan này có hai khối đá đối nhau, ở giữa rộng khoảng 30 bộ [bước], tục gọi là Quỷ-Môn Quan. Mã-Viện sang đánh nước ta qua đấy có dựng bia và cho tạc rùa đá nay vẫn còn. Về đời nhà Tấn (265-420) , người Tàu sang nước ta, qua cửa quan này bị chết hại rất nhiều, nên có câu nói: Mười đi chín chẳng về ! hay: Quỷ-Môn Quan, Quỷ-Môn quan; Thập nhân khử, nhất nhân hoàn [nghĩa là: Cửa ải Quỷ-Môn, mười người đến, chỉ có một người trở về !]. Theo Phương-Ðình Dư-Ðịa-Chí, ở xã Chi-Lăng [thuộc Châu Ôn] có quan-lộ hẹp, núi đá hiểm-trở; phía tây xã, suối sâu, nước độc; gọi là Quỷ-Môn Quan. Ðời nhà Lê trung-hưng, sứ Tàu sang ta sách phong, ghét tên Quỷ-Môn Quan, đổi gọi là Úy-Thiên Quan. Gần cửa Quỷ-Môn, tương-truyền là đền thờ Mã-Viện; nhưng xem kỹ tượng đá thì lại là tượng đàn-bà; sự-tích của đền không được rõ-ràng, không sao khảo-xét được. Theo Việt-Hoa Thông Sứ Sử-Lược [của Bế Lãng-Ngoạn và Lê Văn-Hoè, Quốc-học Thư-xã xuất-bản, Hà-nội, 1943] thì sứ-bộ của ta sang Tàu đều dừng lại ở cửa ải này trước khi tiến đến cửa ải Nam-Quan.

Chi-Lăng vang danh trong Việt-sử với những trận đánh oanh-liệt ngăn chặn được cuộc xâm-lăng của quân nhà Tống dưới đời vua Lê Ðại-Hành và nổi tiếng nhất là vụ tướng Liễu-Thăng của nhà Minh bị phục-binh của nghĩa-quân Bình-Ðịnh-Vương Lê-Lợi -- do tướng Lê-Sát chỉ-huy -- chém rơi đầu Liễu-Thăng ở Ðảo-Mã-Pha thuộc Mã-Yên-Sơn, gần ải Chi-Lăng. Trước đây, ở phía nam ải Chi-Lăng có hai khối đá lớn. Một khối có hình-dáng giống như thanh kiếm khổng-lồ gọi là Lê Tổ Kiếm [nghĩa là thanh kiếm của vua Lê Thái-Tổ tức Bình-Ðịnh-Vương Lê-Lợi] và một tượng đá có hình-dáng như một người quỳ gối và bị cụt đầu, gọi là Liễu-Thăng Thạch [tức đá Liễu-Thăng; ám-chỉ tướng nhà Minh là Liễu-Thăng bị tướng Lê-Sát chém cụt đầu ở Chi-Lăng]. Sau trận chiến-tranh năm 1979, quân-đội Trung-Cộng đã cho phá-hủy các di-tích lịch-sử trên của ta ở Chi-Lăng! Ðời nhà Trần, Thái-học-sinh Phạm Sư-Mạnh đi tuần-thú Xứ Lạng có làm thơ về vùng Chi-Lăng, nguyên-tác Hán-văn trong Hoàng-Việt Thi Tuyển của Bùi Huy-Bích; bản dịch nghĩa trong Hợp Tuyển Thơ Văn Việt-Nam như sau: Ði tuần-thú cõi biên-giới ngàn dặm, tiếng trống nện vang. Kéo quân qua những thành xa, trại vắng hình bé nhỏ. Phía nam, phía bắc khe núi, cờ đỏ chuyển vần. Ðằng trước, đằng sau quân, trâu rừng kêu rống ! Hang Lâu-Lãi sâu hơn đáy giếng. Ải Chi-Lăng hiểm-yếu bằng đường lên trời ! Thúc ngựa, lướt gió, lên cao ngoảnh đầu lại, Trông về Kinh-đô [Thăng-Long] thấy bóng mây nghi-ngút phương tây.
 

CHÂU ÔN

Châu Ôn hay Ôn-Châu tức là huyện Chi-Lăng ở tỉnh Lạng-Sơn ngày nay. Xưa vùng Châu Ôn gọi là Khâu-Ôn. Theo An-Nam Chí Nguyên của Cao Hùng-Trưng, xưa ở Khâu-Ôn có núi Khâu-Mạ, đỉnh núi luôn-luôn phủ mây trắng. Núi này ở về phía tây Châu Ôn và sau này gọi là núi Kháo-Sơn, có hai đỉnh cao có hình-dáng như hai mẹ con, cho nên có tục-danh là núi Kháo Mẹ và núi Kháo Con. Theo Ðại-Nam Nhất Thống Chí, đời nhà Lý [1010-1224] đất Châu Ôn gọi là châu Quang-Lang; thời Minh-thuộc [1407-1427] gọi là Khâu-Ôn hay Huyện Ôn [thuộc phủ Lạng-Sơn]. Thời Hậu-Lê, đổi Khâu-Ôn là Châu Ôn; có 5 tổng [Mai-Pha, Vân-Thê, Tràng-Quế, Bằng-Mạc, Sơn-Trang] và 57 phố, chợ, động, quán. Bấy giờ Châu Ôn thuôc phủ Trường-Khánh, trấn Lạng-Sơn. Theo Danh-mục Các Làng Xã Bắc-Kỳ -- Nomenclature des Communes du Tonkin [của Ngô Vi-Liễn, Imprimerie Mạc Dình-Tư, Hà-Nội, 1928] Châu Ôn còn 3 tổng: Quang-Lang, Sơn-Trang và Vân-Thê [2 tổng kia chuyển sang châu Cao-Lộc cùng tỉnh Lạng-Sơn].

Theo Ðịa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ, thời Pháp-thuộc, vị-trí và giới-hạn của Châu Ôn đã bị thu hẹp: phía bắc giáp tỉnh-lỵ Lạng-Sơn và châu Cao-Lộc, phía tây giáp châu Bằng-Mạc [do đất của Châu Ôn tách ra] và phía nam giáp tỉnh Bắc-Giang. Cư-dân Châu Ôn ngoài người Việt con có người Khách [tức người Tàu] và người Nùng Áo Trắng [sinh sống nhiều ở các trại Nho-Lâm, Thượng-Muộn, Na-Pá, Kim-Quan, Bản Lũng, Bản Cục]. Theo Ðại-Nam Nhất Thống Chí, hiện con dấu-tích các bảo [dồn đắp bằng đất] Ðan-Sa ở xã Bình-Khê gần trấn-thành Lạng-Sơn, dồn binh ở xã Sơn-Trang và cửa Quang-Lang hay cửa ải Chi-Lăng ở xã Quang-Lang. Sau năm 1954, Châu Ôn đổi là huyện Thanh-Mai thuộc tỉnh Cao-Lạng [Cao-Bằng và Lạng-Sơn]. Năm 1978, huyện Thanh-Mai được cải tên là huyện Chi-Lăng [thuộc tỉnh Lạng-Sơn]; diện-tích 749 km2, có 2 thị-trấn Chi-Lăng và Ðồng Mỏ và 19 xã [Chi-Lăng, Bắc-Thủy, Gia-Lộc, Chiến-Thắng, Bằng-Mạc, Bằng-Hữu, Hoà-Bình, Hữu-Kiên, Quan-Lag-Lang, Y-tịch, Vạn-Linh và Thượng-Cường]. Huyện-lỵ Chi-Lăng đặt tại thị-trấn Ðồng Mỏ thuộc hữu-ngạn thượng-nguồn Sông Thương. Từ Ðồng Mỏ có đường bộ và đường xe lửa đi tỉnh-lỵ Lạng-Sơn ở về phía đông-bắc, đi Hữu-Lũng, thị-trấn Kép và tỉnh-lỵ Bắc-Giang ở về phía tây-nam. Thổ-sản nổi tiếng của Chi-Lăng có trái bầu; người địa-phương ăn thì không sao, nhưng người lạ mà ăn trái bầu này thì dễ bị bệnh vì không hợp thủy-thổ; do vậy phong-dao địa-phương có câu: Thứ-nhất thì bầu Chi-Lăng, Thứ-nhì cây khế Ðồng-Ðăng, Kỳ-Lừa!.

Ðời nhà Minh, Khâu-Ôn hay Châu Ôn vốn là nơi tranh-chấp giữa ta và Tàu. Theo Ðộc Sử Phương Dư Kỷ Yếu dẫn trong Phương-Ðình Dư Ðịa Chí của Nguyễn Văn-Siêu, khoảng niên-hiệu Hồng-Vũ thứ 29, tức năm 1936 đời vua Minh Thái-Tổ, nhân dịp nước ta suy yếu -- mọi quyền chính của nhà Trần đều ở trong tay Thái-sư Lê Quý-Ly [tức Hồ Quý-Ly], Tri-phủ Tư-Minh [thuộc tỉnh Quảng-Tây bên Tàu] tâu lên vua Minh rằng nước An-Nam cướp mất các huyện Khâu-Ôn, Như-Ngao, Khánh-Viễn, Uyên-Thoát. Vua nhà Minh xuống chiếu đòi nước ta phải trả lại các đất ấy; nhưng nhà Trần không thuận. Ðầu niên-hiệu Vĩnh-Lạc [tức năm 1403 đời vua Minh Thành-Tổ], vua Minh sai Chinh-Nam Tướng-quân Hoàng-Trung đưa con cháu nhà Trần sang hàng nhà Minh là Trần Thiêm-Bình về nước. Nhưng quân Minh đã bị quân ngăn chận lại và Trần Thiêm-Bình bị giết chết ở Cầu Trạm, gần Khâu-Ôn. Năm 1407, quân Minh xâm-chiếm nước ta, tiêu-diệt nhà Hồ, cho huyện Khâu-Ôn vao phủ Tư-Minh thuộc tỉnh Quảng-Tây bên Tàu. Nếu không có chiến-thắng lẫy-lừng của Bình-Ðịnh-Vương Lê-Lợi đánh đuổi quân Minh về nước và thu-phục được nền tự-chủ của nước nhà, thì Châu Ôn đã bị sáp-nhập vào bản-đồ của Trung-quốc từ đầu thế-kỷ XV.
 

NÚI PHÂN-MAO

Dựa trên các sách sử của Trung-quốc, điều không thể chối cãi là từ miền nam núi Ngũ-Lĩnh tức miền Hoa-Nam [hay nam Trung-quốc ngày nay] từng là đất của Bách-Việt mà nhà Hán, Ðường đã dần-dần xâm-chiếm và đồng-hóa những bộ-lạc người Việt ở đấy thành người Trung-quốc trong suốt thời-gian lịch-sử của họ. Kết-quả là hiện nay trên thực-tế chỉ còn lại những ngưòi Trung-quốc nói ngôn-ngữ Hán Quảng-Ðông, Hán Phúc-Kiến, Hán Triều-Châu v.v...(7). Ðời nhà Hán, Triệu-Ðà -- lãnh-tụ bộ-lạc mường, mán hay man-di -- đã lấn chiếm nước Âu-Lạc của vua An-Dương-Vương ở Bắc-phần và bắc Trung-phần Việt-Nam ngày nay, sáp-nhập vào miền nam Ngũ-Lĩnh gồm vùng Quảng-Ðông và Quảng-Tây lập ra nước Nam-Việt, độc-lập với nhà Hán. Ðại-Việt Sử-Ký cũng từng chép: Nước Ðại-Việt ở về phía nam núi Ngũ-Lĩnh, trời đã phân-định ranh-giới Bắc và Nam, kể từ khi thủy-tổ nước ta mở cõi nước Nam, trải qua thời-gian mạnh yếu có lúc khác nhau, mà hào-kiệt nước Nam đời nào cũng có... Ðời nhà Lý [1010-1224] Lý Thường Kiệt từng đem quân phá Tống ở Châu Khâm và Châu Liêm không phải là không có lý-do; mà đó là vì ở nơi ấy có núi Phân-Mao, từng là ranh-giới xưa của ta và Tàu... Theo Dư Dịa Chí của Nguyễn-Trãi, núi Phân-Mao ở về phía tây lộ Hải-Ðông khoảng 300 dặm. Nơi đây có kim tiêu quen gọi là cột đồng Mã-Viện. Ðại-Nam Nhất Thống Chí Lịch-triều Hiến-chương Loại-Chí [phần Dư Ðịa Chí] của Phan Huy-Chú dẫn sách Dư Ðịa Kỳ Thắng của Trung-quốc cũng nhắc là ranh giới Nam và Bắc [giữa ta và Tàu] thuộc biên-giới trấn An-Quảng xưa có núi Phân-Mao. Theo Gia-Khánh Trùng Tu Nhất Thống Chí [tức bộ sách địa-dư đời vua Gia-Khánh nhà Minh bên Tàu], núi Phân-Mao ở về phía tây Khâm-Châu, năm Tuyên-Ðức thứ-hai, tức năm 1542, Mạc Ðăng-Dung từng cắt hai châu Thạch-Tích và Niêm-Lãng và 4 động Cổ-Sum, Tê-Lẫm, Kim-Lặc và Vạn-Cát hiến nhà Minh; cho nên từ đấy toàn thể núi Phân-Mao thuộc về đồ-bản nhà Minh. Theo Ðại-Thanh Nhất Thống Chí [tức bộ địa-dư của Trung-quốc dưới đời nhà Thanh], núi Phân-Mao ở động Cổ-Sâm, cách Khâm-Châu [hay Châu Khâm] khoảng 3 dặm về phía tây. Tương-truyền trên đỉnh núi Phân-Mao có thứ cỏ tranh, do ảnh-hưởng của khí-hậu và địa-thế, ngon cỏ tranh ngả theo hai hướng Bắc và Nam cho nên mới có tên gọi là núi Phân-Mao nghĩa là núi có thứ cỏ chia ra làm hai hướng. Ðại-Việt Sử-Ký Toàn-thư của ta cũng ghi thêm là: Trương-truyền cột đồng Ðông-Hán do Mã-Viện dựng ở động Cổ-Lâu thuộc Châu Khâm. Gần đây, theo Bản-đồ miền Nam Trung-quốc có vẽ các tỉnh đời nhà Tống trong sách Chinas March Toward the Tropics của Harold Wiens [Yale University xuất-bản năm 1954], theo đó biên-giới của nhà Lý bao gồm cả núi Phân-Mao và một phần tỉnh Quảng-Tây tức các vùng Châu Khâm và Châu Liêm của nhà Tống xưa. Trong dân-gian thì luôn nhắc tới chiến-thắng mùa xuân năm Kỷ-dậu 1789 và mộng ước của vua Quang-Trung Nguyễn-Huệ là đòi lại các đất Lưỡng-Quảng [Quảng-Ðông và Quảng-Tây] của nước Nam-Việt xưa.

Ðại-Việt Sử-Ký Toàn-Thư dành 2 quyển trong phần ngoại-kỷ ghi chép về nhà Triệu của Triệu-Ðà và coi nhà Triệu và nước Nam-Việt là vương-triều chính-thống của nước ta. Việt-Sử Tổng-Luận của Lê-Tung cũng xác-nhận nhà Triệu thuộc nước ta. Gần đây, cùng với lập-trường mới nhượng-bộ Trung-quốc, Sử-gia Phan Huy-Lê, Giáo-sư Sử-học Trường Ðại-học Tổng-hợp Hà-Nội, trong bài giới-thiệu Tác-giả, Văn-bản và tác-phẩm Ðại-Việt Sử-Ký Toàn-Thư [Nhà xuất-bản Văn-hoá - Thông-tin, Hà-Nội, năm 2000] thì lại cho rằng các tác-giả Ðại-Việt Sử-Ký Toàn-Thư đưa nhà Triệu của Triệu-Ðà vào Quốc-sử là một sai-lầm kéo dài. Khi cường-quyền và bạo-lực can-thiệp và định chuyện quốc-sử để phục-vụ quyền-lợi riêng tư cho phe đảng và không kể gì đến quyền-lợi của quốc-gia, dân-tộc và không biết ơn công-lao của tiền-nhân dựng nước và giữ nước thì chúng ta sẽ không ngạc-nhiên gì khi thấy nhiều vùng đất-đai thuộc lãnh-thổ và lãnh-hải nước ta được hiến-dâng cho ngoại-bang. Công và tội của các nhà cát-địa-sứ tân-thời bán đất-đai này sẽ bị lịch-sử kết tội và đời-đời nhắc-nhở tới những hành-vi hèn-kém này!
 

CHÚ-THÍCH

1.-- Vị-trí và lược-sử châu Văn-Uyên: Theo Dư-Dịa-Chí của Nguyễn-Trãi, đất Văn-Uyên xưa là Châu Van. Theo Ðại-Nam Nhất Thống Chí và Cương-mục, thời Minh-thuộc [1407-1427], đất Văn-Uyên được gọi là Huyện Uyên; đờu Hậu-Lê gọi là châu Văn-Uyên, cho thuộc phủ Trường-Khánh, thừa-tuyên Lạng-Sơn.. Theo Ðại-Nam Hội-điển Sự-lệ, đầu triều Nguyễn, châu Văn-Uyên vẫn thuộc phủ Trường-Khánh, trấn [sau năm 1832 gọi là tỉnh] Lạng-Sơn; có 7 tổng [Vĩnh-Dật, Uyên-Cốt, Hành-Lư, Dã-Nham, Quang-Bí, Nhâm-Lý, Hoá-Nhân] và 56 xã, động, phố, quán. Từ lâu, Thổ-quan họ Nguyễn-đình đời-đời thế-tập. Mãi đến năm 1836, vua Minh-Mệnh mới đặt chế-độ lưu-quan, dùng Tri-châu và Huấn-đạo người Việt thay cho chế-độ thổ-tù ở châu Văn-Uyên. Theo Ðại-Nam Thực-Lục, năm 1835 vua Minh-Mệnh cho châu Văn-Uyên đổi thuộc về phủ Tràng-Ðịnh, vẫn thuộc tỉnh Lạng-Sơn. Châu-lỵ Văn-Uyên đặt tại xã Ðồng-Ðăng, đối-diện với cửa ải Nam-Quan. Tại xã Ðồng-Ðăng và xã Kim-Cúc lân-cận thì đặt đồn binh.. .. Tại Khe Ác và Khe Danh gần Ðồng-Ðăng xưa kia nổi tiếng là vùng ác-thủy [nước độc]. Thời Pháp-thuộc, châu Văn-Uyên đổi là châu Cao-Lộc. Theo Ðịa-dư Các tỉnh Bắc-Kỳ, vị-trí và giới-hạn của châu Cao-Lộc như sau: bắc giáp châu Thoát-Lãng, phía tây là châu Ðiềm-He, phía đông giáp tỉnh Quảng-Ðông của Trung-quốc và phía nam là Châu Ôn [nay là huyện Chi-Lăng]. Về cư-dân, ngoài người Việt, các sắc-tộc chính ở châu Cao-Lộc là người Khách [tức người Tàu] và người Nùng Áo Trắng. Người Khách thì ở các phố Khách tại Ðồng-Ðăng, Nà-Hinh, Nà-Thường, Nà-Khía, Bằng-Kháọ Người Nùng Áo Trắng ở các trại Yên-Hùng, Xuân-Viện, Hạo-Dục, Bác-Viên, Yên-Lô, Hoà-Hiệu, Khòn-Nậm, Nà-Tuấn, Ðồng-Quần, Hoa-Giáp, Lũng-Cống, Qúy-Hoà, Hùng-Thắng, Phong-Cói và ở quán Uyên-Cốt. Sau năm 1954, châu Cao-Lộc đổi là huyện Văn-Uyên. Năm 1964, huyện Văn-Uyên sáp-nhập với huyệt Thoát-Lãng thành huyện Văn-Lãng [tỉnh Lạng-Sơn].

2.-- Ông Ngô Thì-Vị [1774-1821] -- con trai út của Ngô Thời-Sĩ -- nhân dịp đi sứ Tàu, qua cửa Trấn-Nam, phải vào đài Chiêu-Ðức và đình Tham-Ðường ở cửa quan này, có làm bài thơ về Trấn-Nam Quan, ngụ ý chê người Trung-quốc về những cái hoa mỹ rỗng tuếch và sự trịch thượng của họ.

3.-- Ðại-Nam Quốc-sử Diễn-ca của Lê Ngô-Cát và Phạm Ðình-Toái có câu về địa-danh Nam-Giao: Nam-Giao là cõi ly minh, Thiên-thu định phận rành-rành từ xưạ Kinh Thư của Trung-quốc trong thiên Ðế điển [tức thiên về vua Nghiêu] cũng có nhắc đến đất Nam-Giao. Như vậy tên Nam-Giao đã có trong kinh điển Trung-quốc từ lâu.

4.-- Thuộc châu Hạ-Ðống và Long-Châu thuộc phủ Thái-Bình, tỉnh Quảng-Tây bên Tàu có nhiều cửa ải của họ tiếp-giáp với địa-giới huyện Thất-Khê của ta như ải Cam-Môn [giáp với thôn Cụ-Khánh], ải Cổ-Thành [giáp với xã Nghĩa-Thầm], ải Nguyệt-Hoa [giáp với xã Bình-Lãng], ải Ba-Ôn [giáp với xã Nông-Ðồn].

5.-- Về Cột đồng Mã-Viện, theo Thủy Kinh Chú, năm 42 Tây-lịch, tức năm Hán Kiến-Vũ thứ 18, Mã-Viện [tức Mã Uyên-Minh] đã cho dựng kim tiêu [tức cột mốc bằng kim-loại], thường gọi là cột đồng hay đồng trụ để đánh dấu giới-hạn phía nam của nhà Ðông-Hán với câu thề Ðồng trụ chiết, Giao-Chỉ diệt (nghĩa là: Cột đồng mà bị đổ gẫy thì dân Giao-Chỉ, tức dân-tộc ta sẽ bị tiêu-diệt). Nhưng Thủy Kinh Chú không cho biết vị-trí cột đồng này ở đâu.

6.-- 1 thước ta dài khoảng 40 cm. 1 trượng có 10 thước ta, dài khoảng 4 m.

7.-- Riêng người Việt-Nam, nhờ tinh-thần độc-lập và tự-chủ, tuy học và đọc sách chữ Hán; nhưng dùng chữ Nôm [hay Nam] và không chịu nói theo tiếng của người Hán mà nói theo tiếng của ngôn-ngữ Việt, thường gọi là tiếng Hán-Việt nên không bị đồng-hoá về ngôn-ngữ.

Hà Mai Phương