ÐỊA LÝ BIỂN ÐÔNG VỚI
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

Vũ-Hữu-San

 

(tiếp theo)

10.2 - Ðất-đai san-hô.

Các đảo ở Trường-Sa và Hoàng-Sa đều là các ám-tiêu san-hộ Ðặc-tính đất đai vì đó khác-biệt với đất-đai các đảo ven biển cũng như đất đai vùng duyên-hải.

Trong bản "Phúc-trình Cuộc Thám-sát Hòn Nam Yít thuộc Quần-đảo Trường-Sa vào mùa thu năm 1973" Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh viết như sau:

"... Ðây là những ám-tiêu san-hô tiêu-biểu trong vùng Thái-bình-Dương. Trong quá-trình địa-chất, hòn Nam-Yít được thành-lập do sự nguội đặc của dung-nham huyền-vũ phún-xuất ngầm dưới mặt nước. Về sau san-hô bám vào đó và tăng-trưởng mau lă nhờ vào các điều-kiện thích-hợp cho môi-trường sinh sống của chúng như chiều sâu của mực nước biển, nhiệt-độ lượng Oxy ...

San-hô nhờ có vỏ vôi nên khi chết vỏ sẽ hóa cứng và thành-lập nên đá vôi san-hô có nguồn-gốc sinh-học.

... Ðất đai thuộc nhóm Regosol trắng ở ven bìa hòn là các đụn cát thấp nằm che phủ lớp đá vôi san-hô bên dướị Trắc-diện đất (được đo) có chiều sâu thay đổi từ 40cm đến 120cm.

... Trắc-diện (đụn cát ven bìa) có sa-cấu cát pha thịt nên độ thoát thủy mạnh và khả-năng giữ nước kém. Ở ven bìa hòn đảo, nước mặn thấm-nhập nên độ dẫn điện trong dung-dịch đất khá cao. Ngoài ra vì trong cát có lẫn thật nhiều mảnh vỏ sò, ốc, san-hô bằng CO3Ca bị nát vụn nên lượng Ca trao đổi được chiếm tỉ-lệ thật cao .

Trong khi các trắc-diện lấy ở giữa hòn, nơi các chỗ trũng có cây cối mọc tươi tốt nên trong đất có lượng chất hữu-cơ rất giàu do thực-vật bị huỷ-hoại cung-cấp, độ dẫn-điện, lượng Ca và Na giảm đi một cách rõ rệt, đồng thời chất lân và Mg đồng-hóa cao hơn so với nơi bìa đảọ Sa cấu của đất tương-đối cũng ít cát hơn, giàu đất thịt và sét hơn, do đó đất tương-đối chậm thoát thủy hơn.

Các nhận-xét trên cho thấy là đất đai ở giữa hòn thích-hợp cho việc canh-tác hơn so với ven bìa nhờ khá giàu chất hữu-cơ, lân, chậm thoát thủy và nhất là ít bị mặn.

... Kết-quả cuộc thám-sát tại chỗ cho thấy đất đai trên hòn Nam-Yết không đủ khả-năng nuôi sống vài chục người nếu chỉ tự-lực canh-tác."

Tuy vậy Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh cũng kêu gọi các quân-nhân đồn-trú nên ý-thức việc tự-lực cánh-sinh mạnh mẽ như Lỗ-Bình-Sơn hơn là chỉ lệ-thuộc hoàn-toàn vào nguồn thực-phẩm tiếp-tế từ đất liền.

Hình 69 - Bảng phân-chất đất trên đảo Nam-Yết của Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh.
 

10.3 - kích-thước và tuổi-tác các đảo

Các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa thường thấp và nhọ Tuổi của san-hô cấu tạo nên đảo khó mà biết được chính-xác.
 

10.3.1 - Kích-thước của đảo san-hộ

San-hô, nguyên-chất cấu tạo nên đảo, là loài thủy-sinh-vật; tuy chúng có thể nảy nở và phát-triển theo chiều cao, nhưng khi đạt đến một cao-độ giới-hạn nào đó thì chúng ngưng lại vì san-hô không thể sinh-tồn được nếu bị đẩy ra ngoài nước quá lâụ Trong khi mặt biển lên xuống theo thủy-triều, độ cao mực nước lại cũng ảnh-hưởng theo với cả tình-trạng nóng lạnh của trái đất. Khi băng đá tích-tụ nhiều ở hai địa-cực thì mực nước biển thấp, khi băng đá tan rã thì mực nước dâng lên cao.

Giáo sư Sơn-Hồng-Ðức cho rằng các đảo san-hô không thể nào cao hơn mực nước cao nhất của bể thời trước.

Tại quần-đảo Hoàng-Sa, ngoài Ðảo Ðá là hòn cao nhất, tới 50 ft (16 m); những hòn đảo khác thấp hơn nhiềụ Nhìn chung các đảo Hoàng-Sa cao hơn hẳn những đảo ở Trường-Sa vì Nam-yết là đảo cao nhất của quần-đảo Trường-Sa chỉ vào khoảng 15ft, hay chưa quá 5m (có tài-liệu ghi 20m hay 60ft, những con số này không đúng.)

Hình 70 - Theo P. Chevey, các ám-tiêu san-hô không mọc cao được vì phần san-hô nằm trên mực nước lớn của thủy-triều sẽ bị chết.
 

Chỉ cách Hoàng-Sa chừng hơn 100 Hải-lý về phía đất liền Việt-Nam, mà hòn Cù-Lao Ré nhờ sự cấu-tạo địa-chất khác-biệt nên rộng lớn (dài khoảng 5km) và cao hơn nhiều, tới 590 ft (180m.)

Vì cao-độ của các đảo san-hô khiêm-tốn như vậy, những người lái tàu thuyền chỉ nhận ra đảo khi lại thật gần. Ðảo đã thấp sát mặt biển, lại còn rải rác nhiều bãi cạn hay rặng san-hô mọc ngầm nữa. Những nguy-cơ thảm khốc cho người đi biển thật bất ngờ và thật nhiều. Khi thời-tiết xấu và trong đêm tối, đặc-biệt lúc giông bão; số lượng thương-thuyền hay chiến-hạm đã mắc cạn ở những vùng này không có thống-kê nào ghi lại cho hết được. Có nhiều xác tàu trơ trọi, những ống khói và đài chỉ-huy nhô lên mặt biển nhắc nhở bao tai-nạn hãi-hùng đã xảy ra.
 

10.3.2 - Tuổi đảo: thật già và thật trẽ.

  • Hiện chưa có sự định tuổi chính-xác cho các đảo Hoàng-Sa / Trường-Sa, nên chúng ta chỉ có thể phát-biểu một cách tổng-quát là sự hiện-hữu của chúng đã từ cuối đệ tứ nguyên-đại, trong vòng nhiều triệu năm...

Xin lấy một thí-dụ để so sánh tuổi-tác của bãi ngầm san-hô Bikini thuộc quần-đảo Marshall Islands, nơi vụ thí-nghiệm nổ nguyên-tử ngầm dưới nước diễn ra năm 1946. San-hô nơi đây, tương-tự như Hoàng-Sa / Trường-Sa, nhưng dầy tới hàng ngàn feet, được định tuổi là 30,000,000 năm.

Chúng ta biết rằng từ khi biển thành-hình, mực nước biển đã từng lên xuống nhiều lần. Vì mực nước ngày nay đang ở cao-độ tối-đa và san-hô chỉ mọc trong nước, thế nên phần phía trên của đảo chắc chắn chỉ mới xuất hiện trong vòng mười mấy ngàn năm trở lại đây, khi nước biển ở mức-độ 40 hay 50m thấp hơn hiện-thờị Phần san-hô chìm sâu trong lòng biển hẳn nhiên phải già nua hơn nhiều.

  • Căn-cứ trên những tài-liệu nghiên-cứu đã phổ-biến, các nhà địa-chất tin-tưởng rằng nhiều đảo san-hô trong Biển Ðông đang tiếp-tục thành-hình và một số đảo sẽ có thể bị biến mất vì những chuyển-động địa-chấn.

Báo Economist, July 7, 1990 loan tin chỉ mới đây, vào năm 1988 bỗng-nhiên có một hòn đảo nhỏ nổi lên gần bờ vùng Sabah của Mã-lai-Á, cho dù không có những rung-chuyển địa-chấn gì dữ dội (bài "Fishing for Trouble in the Spratlys", trang 36.)

Ngoài ra sự hình-thành cũng như sự tồn-tại của các đảo còn lệ-thuộc vào môi-trường sinh sống của san-hô như ánh-sáng, nhiệt-độ, đặc-tính đáy biển, độ mặn và lượng Oxy trong nước biển...

  • Theo những tài-liệu ghi nhận được từ các nhà hàng-hải thì trong khoảng vài trăm năm nay trở lại đây, một số đảo mới tiếp-tục xuất-hiện và cao dần:
     
    • Vào tiền-bán thế-kỷ XIX, ông Gutzlaff thuộc hội Geographical Society of London đã viết trong bài nhan-đề "Geography of the Cochinchinese Empire" (báo The Journal of the Asiatic Society of London năm 1849) như sau: "... quần-đảo Cát Vàng gần bờ biển An-Nam, nằm giữa các vĩ-tuyến 15 và 17 độ Bắc và các kinh-tuyến 111 và 113 độ Ðông... không biết vì san-hô hay vì lẽ gì khác mà các ghềnh đá ấy cứ lớn dần, thật rõ ràng là các đảo nhỏ ấy cứ mỗi năm mỗi cao hơn. Có vài hòn bây giờ có thể cư-trú được mà mấy năm trước, sóng còn vỗ mạnh đập tràn qua ..."
       
    • Bãi Thuyền Chài tại quần-đảo Trường-Sa chỉ mới nổi lên mấp mé mặt nước hồi gần đâỵ Toàn bãi hiện nay đã dài khoảng 32 km, chỗ rộng nhất vào khoảng 5 - 6 km (Lịch văn-hóa Việt-Nam, Hà-nội 1989.) Như vậy bãi đang cao dần, có thể sau này vài ba chục năm sẽ trở thành đảo hay một nhóm đảo nhọ Tuy vậy hiện nay bãi Thuyền Chài chưa có đủ an-toàn cho con người cư-trú.
       

10.4 - Hoàng-Sa và Trường-Sa thuộc Việt-Nam về phương-diện vị-trí.

Quần-đảo Hoàng-Sa nằm giữa vùng Biển Ðông của nước Việt-Nam, ngang bờ biển các tỉnh Quảng-Trị, Thừa-Thiên, Quảng-Nam và một phần Quảng-Ngãị Còn hầu hết các đảo của Quần-đảo Trường-Sa nằm ngang vĩ-độ với Phan-Rang - Cà Mâu .

Về khoảng cách đất liền, quần-đảo Hoàng-Sa nằm gần Việt-Nam nhất. Sự so sánh như sau:

  • Khoảng cách từ đảo Tri-Tôn (15 độ 47'N, 111 độ 12'E) tới Lý-Sơn hay Cù-lao Ré (15 độ 22'N, 109 độ 07'E) là 2 độ 03 phút trên thước đo khoảng cách vĩ-độ, tức chỉ có 123 hải-lý.

    Nếu lại lấy tọa-độ (Lý-Sơn 15 độ 23.1'N, 109 độ 09.0'E) từ trong bản tuyên-cáo đường căn-bản nội-hải của chính-quyền CHXHCN Việt-Nam (Declaration on Baseline of Territorial waters, 12 November 1982) thì khoảng cách đến bờ Cù-lao Ré thu ngắn lại dưới 121 hải-lý.

    Từ đảo Tri-Tôn này đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan - 15 độ 14'N, 108 độ 56'E) tức đất liền lục-địa Việt-Nam, khoảng cách đo được 135 hải-lý.
     
  • Trong khi đó, khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải-Nam xa tới 140 hải-lý (đảo Hoàng-Sa - 16 độ 32N, 111 độ 36 E và Ling-sui Pt hay Leong-soi Pt - 18 độ 22 N, 110 độ 03 Ẹ) Khoảng cách từ Hoàng-Sa tới đất liền lục-địa Trung-Hoa còn xa hơn rất nhiều, tối-thiểu là 235 hải-lý.
     
  • Nếu người Trung-Hoa dùng "bãi đá ngầm" (North Reef) làm chuẩn để đo đến bờ "đảo" Hải-Nam tại Ling-sui Pt, họ "tạo" ra khoảng cách thật gần: 112 hải-lý! Ðiều đó không thể là một lý lẽ tranh cãi vì đá ngầm không có giá-trị như đảo trong việc chuẩn-định ranh giới.

Luận-lý khoảng cách và số lượng đảo của người Việt lúc xưa như Ðỗ-Bá, Lê-quý-Ðôn không hoàn-toàn sai lạc quá đáng như cách-thức xuyên-tạc của người Trung-Hoa khi cho rằng Bãi Cát Vàng trong sách cổ Việt-Nam không phải là quần-đảo Hoàng-Sa ngày nay. Lý-luận của họ thật ngoan-cố hay kiến-thức hàng-hải của họ ấu-trĩ khi nói rằng thuyền đi một vài ngày làm sao tới được Hoàng-Sa.

Hình 71- Bản-đồ ghi khoảng cách các đảo gần nhất của quần-đảo Hoàng-Sa đến các đảo gần đất liền (Trích từ Bản-đồ Southeast Asia- National Geographic Society- Washington DC, 1968.)
 

Các nhà hàng-hải ngoại-quốc như Pierre Paris (1942), J. B. Piétri (1949) cho biết ghe thuyền chạy buồm Việt-Nam xưa nay có vận-tốc rất cao, vượt các tàu thuyền Âu-châu đồng thời. Chiến-thuyền thời chúa Nguyễn đã chứng tỏ luôn luôn chiếm ưu-thắng về vận-tốc khi hải-chiến. Hải-quân Việt nhiều lần đánh đuổi tàu Hòa-Lan (năm 1644) cũng như đã từng trước đó đánh chìm hai tàu của họ (năm 1643) nhờ chạy nhanh.

Sự thật rành rành, Tri-Tôn là một trong các đảo Hoàng-Sa chỉ cách bờ đất Trung-Việt có 135 hải-lý, cách bìa Cù-Lao Ré 121 hải-lý. Các đội Hoàng-Sa đặt căn-cứ và xuất-phát từ Cù-lao-Rẹ Khi thuận buồm, suôi gió, với vận-tốc 12 gút (hl/giờ), cơ-hội cho những ghe bầu Việt vượt khoảng này trong vòng nửa ngày không phải không có .

Ngay trong những sách cổ cũng nói là thuyền ta đi từ Quảng-Ngãi đến Quảng-Ðông chỉ trong 3, 4 ngày. Từ bờ ra Tri-tôn khoảng cách ngắn ngủi hơn 1/6 đoạn đường kể trên. Người thời nay, có lẽ vì ít đi biển nên cho rằng việc chạy ra đảo khó khăn quá chăng? Học-giả Lê-quý-Ðôn khi viết trong "Phủ-biên Tạp-lục", đã cho biết những đường giao-thương vượt biển dỨ dàng hồi hai ba thế-kỷ về trước như sau: "Xứ Thuận-Quảng, đường thủy và các đường lục giao-thông với tỉnh Quảng-Nam... Còn đường biển thì hai xứ Thuận Quảng chỉ cách tỉnh Mân và tỉnh Quảng-Ðông của Trung-Quốc có ba bốn ngày đường nên các tàu buôn Trung-Quốc từ xưa đến nay thường-thường tụ-tập ở hải-phận Thuận-Hóa và Quảng-Nam."

Nếu Trung-Cộng nói Hoàng-Sa trong sách cổ Việt-Nam không phải Hoàng-Sa vậy thì ngoài khơi Cù-lao-Ré (Lý-sơn) trở ra biển có còn bất cứ một đảo hay quần-đảo nào (ngoài Hoàng-Sa) hay không? ... Còn có đảo nào nằm giữa Cù-lao Ré và quần-đảo Hoàng-Sa nữa đâu ?

Bản-đồ cổ của Á-Ðông không đặt nặng tỷ-lệ. Trên các bản-đồ tượng-hình của ta và của Tàu có khi cả một quận, một tỉnh chỉ được vẽ lớn bằng một cửa sông, một ngọn núi lớn hàng trăm dậm. Sử-gia Phạm-văn-Sơn đã viết: "... Kỹ-thuật của ta trong việc vẽ bản-đồ đã theo lối tượng-hình, như vậy có khác kỹ-thuật vẽ bản-đồ của Âu-châu có phần tinh-vi hơn nhưng dù sao lối vẽ của ta cũng như của Tàu vẫn có thể giúp người coi hình-dung được thế sông ngòi, núi non và các địa-phương trong nước." (Việt-sử Toàn-thư, 1960: 489.)

Bỏ ngoài những khoảng cách lớn nhỏ không theo tỷ-lệ như đã nói, người ta thấy bản-đồ cổ thời Hồng-Ðức (1460-1498) do nho-sĩ Ðỗ-Bá công-bố (khoảng 1630-1653) và bản-đồ nhà Nguyễn chỉ-định rõ ràng là vị-trí Hoàng-Sa / Trường-Sa nằm ở ngoài khơi duyên-hải Việt-Nam.

Hình 72 - Bản-đồ cổ chỉ-định vị-trí Hoàng-Sa Trường-Sa nằm ngoài khơi Biển Ðông. (Trích Ðại-Nam Nhất-thống Toàn-đồ triều Nguyễn.)
 

Người Tàu vẫn tự cho là nước họ giỏi Ðịa-lý, và bản-đồ Trung-Hoa vẽ chính-xác hơn bản-đồ Việt-Nam nhưng triều-đình hay dân Trung-Hoa đã có thực-hiện một bản-đồ nào ghi nhận những chi-tiết địa-lý tương-tự về Hoàng-Sa Trường-Sa như vậy không?
 

10.5 - Hoàng-Sa/ Trường-Sa thuộc Việt-Nam về phương-diện địa-hình đáy biển.

Về địa-hình đáy biển, quần-đảo Hoàng-Sa nằm sát với thềm lục-địa của Việt-Nam.

  • Toàn thể khu-vực quần-đảo Hoàng-Sa nổi cao hơn vùng biển vây quanh nọ Nền đất toàn quần-đảo này được nối thẳng vào thềm lục-địa Việt-Nam như là qua một cái cửa ngõ thông vào vùng cù-lao Ré và bờ biển Quảng-Ngãị Hành-lang đó khá nông, chỗ sâu nhất chỉ chừng 500 m. Trong khi đó, đáy biển đột ngột lại sụt xuống về phía Trung-Hoa, độ sâu lên tới hàng ngàn mét, rồi 2000m, 3000m hay hơn nữa.
     
  • Những hải-đồ có ghi độ sâu đáy biển chứng-minh rõ sự kiện nàỵ Ðường đồng- thâm (thủy) 1000 thước bao kín các vùng về phía Bắc và Ðông, trong khi lại mở rộng qua phía Việt-Nam theo chiều hướng Tây Tây Nam.

Hình 73 - Bản-đồ chiều sâu đáy biển chứng-minh quần-đảo Hoàng-Sa là phần nối dài của lục-địa Việt-Nam.
 

Nói một cách khác, nếu mực nước biển hạ xuống chừng 600 tới 700 m thì Hoàng-Sa dính vào Việt-Nam như một khối đất liền và xa cách hẳn Trung-Hoa bằng một vùng biển nước sâu.

Tiến-sĩ Krempf, giám-đốc Hải-học-viện Ðông-Dương là người đầu tiên đã đo đạc kỹ-lưỡng độ sâu đáy biển Hoàng-Sa và thấy rằng quần-đảo này là một cái bình-nguyên ngoài biển, được nối dài ra từ rặng núi Trường-Sơn của Trung-phần Việt-Nam. Trong tờ tường-trình kết-quả khảo-sát năm 1925, ông kết-luận: "Về phương-diện địa-chất, như vậy, những đảo Hoàng-Sa là một phần của Việt-Nam." (Géologiquement, donc, les Paracels font partie du Việt-Nam.)

Bài báo-cáo được ghi nhận lại trong tập tổng-kết báo-cáo của Nha Thủy-Ðạo và Ngư-Nghiệp lên chính-quyền Ðông-Pháp niên-khóa 1926-1927.

Nội-dung những kiến-thức về Hoàng-Sa tương-tự như vậy được Olivier Ạ Saix đăng lại trong báo La Géographie, Tome LX, Nov.-Dec. 1933, trang 232-243.

Sau này có một bài tham-khảo nữa của Marcel Beauvois cũng là một người Pháp như Krempt, lập lại sự kiện "về phương-diện địa-chất, Hoàng-Sa là một phần của Việt-Nam" này (bài "Les Archipels Paracels et Spratly", báo Vietnam Press, Saigon No.7574, Nov 1971.)

Về địa-hình đáy biển, Trường-Sa cũng rõ rệt nối liền với Việt-Nam hơn bất cứ một quốc-gia nào khác bao quanh Biển Ðông. Bờ biển Nam-phần Việt-Nam chạy thoai-thoải tới tận bãi Tứ-Chính thuộc Trường-Sa. Trong thời Băng-Ðá, sông Cửu-long cùng những con sông nhỏ khác trên đồng-bằng Sunda đã đưa phù-sa theo dòng nước chảy ra biển Trường-Sa.

Nhìn trên những hải-đồ có ghi các đường đồng-thâm, người ta thấy quần-đảo Trường-Sa cách biệt hẳn với thềm lục-địa Trung-Hoa / Ðài-Loan bằng rãnh biển sâu 3,000m về phía Bắc và phía Ðông-Bắc. Trường-Sa cũng ngăn cách với Phi-luật-Tân, Brunei và Mã-lai-Á (Tiểu-bang Sabah) bằng rãnh biển East Palawan Trough (The Spratly Islands Dispute and the Law of the Sea, Lee G. Cordner, báo Ocean Development and International Law, Vol. 25, pp 61-74.)

Hình 74 - Bản-đồ chiều sâu đáy biển chứng-minh quần-đảo Trường-Sa là phần nối dài của lục-địa Việt-Nam.
 

Sau khi nghiên-cứu nhân-văn, địa-hình vùng ÐNÁ thời tiền-sử, giáo-sư môn Ðịa-Lý Keith Buchanan trường Ðại-học Victoria, Tân-Tây-Lan đã vẽ ra một bản-đồ có liên hệ tới địa-bàn di-dân từ Biển Ðông vào đất liền. Sự thay đổi sinh-hoạt ??? này là nguyên-do kiến-tạo nền văn-hóa Hoà-Bình. Xin xem lại Hình 3. Thời đó nước cạn, Hoàng-Sa và Trường-Sa dính vào đất liền Việt-Nam (The Southeast Asian World, An Introductory Essay, Keith Buchanan, New York, 1967, trang 45.)
 

10.6 - Hoàng-Sa/ Trường-Sa thuộc Việt-Nam về Phương-diện Ðịa-chất và Sinh-học.

Một người gốc Trung-Hoa như Ting Tsz Kao đã nói rằng nhìn chung thấy sự tuyên-bố chủ-quyền của Trung-Hoa ở Nam-Hải là điều kỳ-quặc và tham-lam quá đáng, nhưng xét về địa-lý thì đúng là của Tàu (sic.)

Chỉ vì sự tham-lam mà các ông trí-thức như vậy đã biện-luận một cách chủ-quan, không cần phải trái, bất-chấp cả lý-lẽ hiển-nhiên về địa-lý. Nguyên-văn lời ngụy-biện đó như sau: "This island complex in international waters appears at first sight a little ođ or monstrous. But when one considers the geographical composition of the Chinese ocean frontier as a whole, the continuity of the possession of the archipelagoes becomes perceivable and reasonable." (The Chinese Frontiers, Illinois 1980: 289.)
 

10.6.1 - Ðịa-chất.

Các đảo của Trung-Hoa từ Bành-Hồ, Ðài-Loan trở lên phía Bắc, cấu tạo bằng những đất đá của nền đại-lục như granite, igneous rock khác hẳn các đảo vùng Biển Ðông của ta cấu-tạo bằng san-hô. Các quần-đảo lại không quy-tụ nhiều đảo. Chỗ Kim-Môn (12 đảo) Mã-Tổ (7 đảo), các hải-đảo khá cao và lớn, số lượng đảo thưa thớt. Xuống đến Pratas, tuy người Tàu gọi cưỡng ép là Ðông-Sa Quần-đảo (Tungsha) nhưng xứng-đáng kể là đảo (Island) theo Luật Biển, chỉ có thể ghi-nhận một đảo mà thôi. Số-lượng này ít ỏi quá, không sao có thể nói là tương-đồng với số lượng là 500 đơn-vị đất đá ở Hoàng-Sa và Trường-Sa được.

Hình 75 - Bản-đồ "quần-đảo" Pratas với một đảo duy nhất.
 

Về những thành-tố cấu tạo, hai quần-đảo Hoàng-Sa cũng như Trường-Sa mang đặc-tính Việt-Nam:

  • Các đảo đều là những ám-tiêu san-hô tiêu-biểu cho vùng biển nhiệt-đới của Việt-Nam.
     
  • Khí-hậu ôn-đới của Trung-Hoa không cho phép sự cấu-tạo các quần-đảo san-hô rộng lớn như vậỵ Người ta cũng chẳng bao giờ thấy tuyết rơi ở Hoàng-Sa như nơi Hoa-lục.
     

10.6.2 - Sinh-thực.

Cây cỏ trên đảo đều là cây cỏ nhiệt-đới loại cây cỏ đất liền Việt-Nam. Nhiều cây lớn được người Việt-Nam mang ra trồng từ lâu. Cây mọc cao như các dấu hải-hiệu giúp cho nhiều tàu thuyền tránh khỏi tai-nạn mắc cạn. Cây cũng giúp đảo giữ đất, tránh sóng, gió, nước xâm-thực.

Ðại-Nam Thực-lục Chính-biên đệ-nhị kỷ quyển 104 chép rằng: Vua Minh-Mạng bảo bộ Công: "Trong hải-phận Quảng-Ngãi, có một dải Hoàng-Sa, xa trông trời nước một mầu, không phân biệt được nông sâu. Gần đây, thuyền buôn thường mắc cạn bị hại. Nay nên dự-bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu lập bia, và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người ta dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được mắc cạn. Ðó cũng là việc lợi muôn đời."

Người Tàu nói dựa vào sử-ký tuyên-bố chủ-quyền toàn thể Biển Ðông, nhưng không có sử sách nào của người Tàu ghi được công-lao hay chứng-tích tương-tự như vậy!
 

10.6.3 - Sinh-hóa.

Lòng Biển Ðông chất chứa các lớp thủy-tra-thạch. Sau nhiều triệu năm các chất hữu-cơ đã tích-tụ lại, chịu sức ép của nhiều lớp địa-tầng nên dần dần biến đổi thành dầu hỏa hay khí đốt. Các khoa-học-gia cũng thấy những đặc-tính Việt-Nam trong sự biến-thể đó như sau:

  • Bản-đồ địa-chất ghi nhận dấu vết những dòng sông thời xưa chảy ra tới tận trung-tâm Biển Ðông.
     
  • Tài-nguyên đáy biển như dầu hỏa và khí đốt thường tạo thành những túi kăt giữa những lớp kết tầng (sediments.)
     
  • Nhiều lần trái đất đã trải qua những thời-kỳ Băng-Giá lạnh lẽo. Nước biển hạ xuống rất thấp và vịnh Bắc-Việt đã qua nhiều giai-đoạn khô cạn cùng ngập nước nối-tiếp nhaụ Khi khô cạn, đó là một vùng đồng-bằng bằng phẳng, ít núi non. Bờ biển lúc này chạy ra xa, tới gần Hoàng-Sa.
     
  • Sông Hồng-Hà của Việt-Nam đã từng cuồn cuộn chảy với lưu-lượng nước nhiều lần lớn hơn hiện-thời. Có lẽ mấy triệu năm trước trong thời địa-chất Pleistocene, dòng sông nước đỏ phù-sa này vào hạng lớn nhất hoàn-cầụ Khi đó, hầu hết nước từ cao nguyên Tây-tạng đã đổ vào sông Hồng. Từ trên cái "mái nhà của trái-đất", nguồn nước hùng-vĩ đã mang ra Biển Ðông những khối-lượng phù-sa khổng-lồ, tạo nhiều lớp kết tầng thủy-tra-thạch tại Hoàng-Sạ Rồi dòng sông chính của miền Bắc nước ta bị thu nhỏ khi địa-chấn xảy ra, nâng cao khu Vân-Nam cắt ngắn thượng-nguồn Hồng-Hà lại như ta thấy hiện naỵ Nguồn nước từ đó bắt đầu chảy sang phía Dương-Tử-Giang làm con sông vùng Hoa-Nam thêm to lớn. (The Junks & Sampans of the Yangtze, G. R. G. Worscester, Annapolis, 1971: 2.)

Cũng nhớ rằng vùng châu-thổ Dương-tử-Giang lúc xưa, theo sử Tàu, cũng có người Việt cổ sinh sống. (Xem hình số 12.)

Hình 76 - Bản-đồ đáy biển với các con sông thời cổ nối dài theo sông Hồng, nước chảy ra biển Hoàng-Sa.
 

  • Sông Cửu-Long hay Mê-Kông của miền Nam nước Việt cũng đã làm việc tương-tự như vậy để cấu-tạo nên những lớp thủy-tra-thạch ngoài khơi Trường-Sa. Mới chừng chục ngàn năm trước, sông Kông (Sông Mẹ với Kông là sông - Mê là mẹ ?) từng đưa nước tưới khắp phía Ðông-Nam của vùng bình-nguyên rộng lớn Sunda.

Các túi dầu như Rồng, Dừa, Bạch-Hổ, Ðại-Hùng ... chỉ mới là những kết-quả sơ-khởi. Cứ đi theo vết cũ của sông Kông, càng ra xa chúng ta càng có thêm hy-vọng tìm thấy nhiều túi dầu lớn hơn nữa.

Hình 77 - Bản-đồ đáy biển với các con sông thời cổ nối dài theo sông Cửu-Long, nước chảy ra biển Trường-Sạ (Hình 76&77 của Geological Topographic Mapping Party of Fujian Province, 1980's.)
 

Cũng tương-tự như thực-vật trên đảo, các thủy-sinh-vật dưới Biển Ðông mang những mối liên-hệ Việt-Nam:

  • Một tỷ-lệ lớn những chất hữu-cơ ở Biển Ðông được mang đến nhờ những dòng nước chảy từ lục-địa Việt-Nam mà ra. Các chất dinh-dưỡng cho thủy-sinh-vật cũng cùng một nguồn đất Việt-Nam đó.
     
  • Nhiều hải-sinh-vật Hoàng, Trường-Sa thuộc vùng nhiệt-đới, rất quen thuộc với người Việt chúng ta nhưng xa lạ với người Tàu. Báo-chí cho biết vào tháng 9/1994, Trung-Hoa khai-mạc khu trưng-bày 5000 mẫu sinh-vật Hoàng-Sa thì phần 500 hải-sinh-vật đã được hết sức tán-thưởng. Lý-do đúng nhất là vì hải-sinh-vật Hoàng-Sa vốn xa lạ quá, nhiều người Trung-Hoa mới chỉ thấy lần đầu mà thôi, họ đi xem cho thỏa tính hiếu-kỳ!

 

11 - THẢO MỘC TRƯỜNG-SA VÀ HOÀNG-SA..

Thảo-mộc hai quần-đảo Hoàng, Trường có nhiều điểm đáng nói:
 

11.1 - Tổng-quát về thảo-mộc các đảo ngoài biển đông.

Nói chung, thảo-mộc các đảo giữa Biển Ðông không nhiều và không được to lớn như trong đất liền. Thảo-mộc Hoàng-Sa Trường-Sa cũng không tươi-tốt khi đem ra so sánh với những cây cỏ mọc trên các đảo vịnh Bắc-Việt, vịnh Phú-Quốc. Về cây lớn, ít có đại-thọ và không thấy các loại gỗ quỵ Về thân thảo, đáng kể đến loại Nam-Sâm mọc nhiều ở Trường-Sa và một số đảo khác ở Biển Ðông. Ðây là một dược-liệu quý-giá. Một số loại cỏ hay giây leo khác nữa mọc lung-tung nhưng không nhiều.

Trên duyên-hải và trên những đảo ven biển Việt-Nam, cây dừa mọc khắp nơi và phi-lao rất nhiều, Hoàng-Sa và Trường-Sa lại khác hẳn. Dừa và phi-lao mọc trên các đảo thật thưa thớt, có đảo không có một cây dừa nào.

Linh-mục Henry Fontaine và giáo-sư Lê-văn-Hội xác-định "Không có loại thảo-mộc nào là tại chỗ cả, tất cả từ vùng đất liền du-nhập đến bằng nhiều cách... Mọi thảo-mộc hiện có ở Hoàng-Sa đều tìm thấy ở Việt-Nam, nhất là miền Trung Việt-Nam" (Góp thêm vào sự tìm hiểu tộc-đoàn thảo-mộc trên quần-đảo Hoàng-Sa - báo Khảo-cứu Niên-san Khoa-học Ðại-học-đường Sài-Gòn 1957.)

Hình 78 - Một hình-ảnh thảo-mộc quen thuộc ở Hoàng-Sa và Trường-Sa.

 

11.2 - Tài-liệu của giáo-sư Fontaine.

Về dữ-kiện khoa-học, chúng tôi xin trích một vài đoạn trong bài "Hoàng-Sa dưới mắt nhà Ðịa-chất H. Fontaine" của Lạp-Chúc Nguyễn-Huy, đăng trong Ðặc-San Sử-Ðịa số 29, năm 1975 để làm tài-liệu.

Những chữ phần gc (ghi-chú) do chúng tôi mạn phép ghi thêm cho dễ hiểu:

... Về tộc-đoàn thảo-mộc, cho đến nay người ta mới biết có bốn loại: Scaevola Koenigii VAHL (Goodeniacée), Wedelia biflora DC (Composée), Guettarda speciosa LINNé (Rubiacée) và Tournefortia agentae (Boraginacée) (Saurin, 1955, tr. 14-15.)

... Dưới đây là các định-danh, một phần đã được ông Schmidt làm:
 

GRAMINÉES (gc= họ hòa-bản)

  • Eleusine indica GAERTIN: đảo Pattle [Hoàng Sa) (ít gặp): cây gặp khắp nơi tại Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao, Thái Lan. Vùng nhiệt-đới và bán nhiệt-đới của cựu-lục-địa.
     
  • Eragrotis amabilis WIGTH ET ARN: đảo Pattle [Hoàng Sa](ít gặp): khắp nơi ở Việt-Nam, Ấn-độ, Mã-Lai.
     
  • Eriochloa racemosa HACK: đảo Roberts (Hữu-Nhật) (ít) gặp khá thường ở Việt-Nam, Á-Châu, Phi-Châu, Mã-Lai, Úc-đại-Lợi.
     
  • Brachiaria distachya Ạ CAMUS: đảo Pattle (Hoang-Sa) (ít): khắp nơi ở Việt-Nam, Ấn-Ðộ, Trung-Hoa, Mã-Lai, Úc-đại-Lợi.
     
  • Lepturus repens R. Br.: (ít); được thấy ở Bắc-Việt, Thái-Lan, Tích-Lan, Ðại-Dương-Châu.
     

AMARANTACÉES (gc= họ dền)

  • Achyrantes aspera LIN.: đảo Money (Quang Ảnh) (thường): cây mọc trên hoang-địa, rất thường ở Việt-Nam, Cao-Miên, Ai-Lao, Trung-Hoa, Ấn-Ðộ.
     

NYCTAGINACÉES (gc= họ bông-phấn)

  • Boerhaavia repens LIN.: đảo Money [Quang Ảnh), đảo Drummond [Duy Mộng): khắp nơi ở Việt-Nam, Cao-Miên, Hoa Nam, Ấn-Ðộ, Phi-Luật-Tân, Java, Phi Châu, Mỹ-Châu.
     

PORTULACACÉES (gc= họ sam)

  • Portulaca pilosa LIN.: đảo Pattle (Hoàng Sa] (trên những lối đi); Trung-Việt, Ai-Lao, Thái-Lan (xuất-xứ tại Châu Mỹ nhiệt-đới.)
     

LAURACÉES (gc= họ quế)

  • Cassytha filiformis LIN.: đảo Pattle [Hoàng Sa], đảo Roberts [Hữu Nhật] thường gặp ở Việt Nam, vùng nhiệt-đới.
     

MALVACÉES (gc= họ bụp)

  • Sida corylifolia WALL.: đảo Drummond [Duy Mộng); cây mọc ở Bắc-Việt, Ai-Lao, Thái-Lan, Hải-Nam, Java, Madura, Phi-Luật-Tân.
     
  • Sida rhombifolia LIN. var. parvifolia GAGNEP.: đảo Pattle [Hoàng-Sa) (ít), Trung Việt.
     

TILIACÉES (họ cò-ke)

  • Triumfetta pseudocanđ SPER,: đảo Drummond (Duy-Mộng]; thường gặp ở Việt-Nam, Thái-Lan, Trung-Hoa, Phi-Luật-Tân, Ấn-Ðộ.
     
  • Corchorus sp.: đảo Roberts [Hữu-Nhật.)
     

ZYGOPHYLLACÉES (gc= họ quỷ-kiến sầu)

  • Tribulus terrestris LIN.: đảo Pattle (hiếm); cây mọc trên duyên-hải cát Trung và Nam Việt-Nam. Vùng nhiệt-đới và bán nhiệt-đới.
     

EUPHORBIACÉES (gc= họ thầu-dầu)

  • Euphorbia (thymofilia BURM?): đảo Roberts [Hữu Nhật) (hiếm.)
     
  • Euphorbia Atotao.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), cây trên duyên-hải, thường gặp ở Việt-Nam, Ấn-Ðộ, lndonésia, Phi-luật-Tân, Trung-Hoa, Úc-đại-Lợi.
     
  • Phyllanthus Niruri LIN.: đảo Pattle (ít gặp): cây mọc trên hoang-địa, ruộng vườn, khắp nơi ở Việt-Nam; Dưới chí-tuyến.
     

LUGUMINEUSES PAPILIONÉES (gc= lugumineuses, họ đậu)

  • Phaseolus (calcaratus ROXB. ?): đảo Money (Quang-Ảnh] (thường gặp.)
     

CONVOLULACÉES (gc= họ bìm bìm)

  • Ipomea Turpethum R. Br.: đảo Pattle (Hoàng-Sạ) đảo Roberts [Hữu-Nhật), đảo Drummond (Duy-Mộng): Việt-Nam, Trung-Hoa, Phi-Luật-Tân, Timor, Java.
     

BORAGINACéES (gc= họ lưu-ly oa-cử)

  • Tournefortia argentea LIN. F.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), đảo Robert (Hữu-Nhật): cây mọc trên giồng Trung-Phần Việt-Nam, Ấn-Ðộ, Mã-Lai, Tích-Lan, Phi-Luật-Tân, Ðài-Loan.
     

VERBENACÉES (gc= họ mã-tiên-thảo)

  • Premna sp.: đảo Money (Quang-Ảnh.)
     
  • Lippia nodiflora LIN.: Ðảo Pattle [Hoàng-Sa); cây bò trên đất, rất thường gặp ở Việt-Nam, nhất là trên vùng đất cát; Châu Mỹ nhiệt-đới và bán nhiệt-đới và khắp Viễn-đông.
     
  • Stachytarphita jamaicensis LIN.: đảo Pattle (Hoàng-Sa) (hiếm), đảo Robert (Hữu- Nhật) (thường gặp); khắp nơi ở Việt Nam. Cây xuất-xứ từ châu Mỹ nhiệt-đới.
     

GOODENIACÉES (gc= cỏ gai)

  • Scaevola Koenigii VAHL. (gc= cỏ gai rất rậm rạp): các đảo Pattle, (Hoàng Sa] Money, [Quang-Ảnh), Roberts (Hữu-Nhật), Drummond (Duy Mộng), thường gặp ở vùng ven biển Việt-Nam, vùng Ðông-Á nhiệt đới, Ðại-dương-Châu.
     

RUBIACÉES (gc=nhàu)

  • Morinda citrifolia LIN.. var bracteata HOOK: đảo Pattle, Roberts, Drummond; cây hoang và có khi được trồng ở Trung và Nam Việt-Nam, Ấn-Ðộ, Tích Lan, Mã-Laị Cây này ít gặp trên quần-đảo Hoàng-Sa (một hai cây trên mỗi đảo) và dường như được ngư-dân mang đến và trồng vì dược-tính.
     
  • Guettarda speciosa LIN.: đảo Money [Quang-Ảnh], đảo Drummond [Duy Mộng]; Nam Việt-Nam, Cao-Miên, Thái-Lan, vùng nhiệt-đới.
     

COMPOSÉES

  • Tridax procumbens LIN.: đảo Pattle (Hoàng-Sa), đảo Roberts (Hữu-Nhật); khắp nơi ở Việt-Nam, Ấn-Ðộ.
     
  • Wedelia biflora DC.: đảo Money (Quang-Ảnh), rất thường gặp ở Việt-Nam, Ấn-Ðộ, Thái Lan, Trung-Hoa, Phi-Luật-Tân.
     
  • Eupatorium sp.: đảo Pattle (Hoàng Sa) (hiếm.)
     

Chúng tôi xin mạn phép Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ để được trình-bày một số hình vẽ trong tập sách Cây cỏ Việt Nam, 1993 của Giáo-sư về thảo-mộc Hoàng-Sa như sau:

Hình 79 - Hoa mười giờ -họ Sam- (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)

Hình 80 - Cassytha filiformis (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)

Hình 81 - Quỉ Kiến Sầu (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)
 

"Quần-đảo Hoàng-Sa mới nổi lên gần đây. Các mảnh đất mới này tạo nên một chỗ trống cho cây cỏ đến và tiếp-tục đến chiếm lập. Từ các vùng đất lân-bang đến bằng nhiều cách, các hạt giống đã nảy nở và thảo-mộc từ đó phủ trùm gần hết các đảo Pattle, Roberts, Money và Drummond; nhưng tộc-đoàn thảo-mộc đó chưa đủ thời-gian để trải qua một tiến-trình nhằm mang lại một đặc-tính riêng-biệt. Không có loại thảo-mộc nào là tại chỗ cả."

Tài-liệu của Giáo-sư Sơn-Hồng-Ðức cho các chi-tiết sau đây:

  • Loại cây cao thường thấy là các cây dừa và phi-lao. Các cây này mọc lẽ tẽ không thành rừng, dừa gần mé nước, phi lao sống trên bãi thường nhỏ bé hơn những cây nơi vùng duyên-hải.
     
  • Kế đó là Bàng Bể (Sea Almond), tên La-tinh Terminalia, thường cao cỡ 5 - 7m. Nhánh mọc ngang thành tầng, thân cây u nần, lá to mầu xanh vàng khi khô trở nên đọ Cây cho quả với nhân lớn và cứng, nướng chín ăn béo như hạnh-nhân.

Hình 82 - Bàng Biển (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)
 

  • To như cây bàng có cây Mù U, tên La-tinh là Calophyllum Inophyllum, lá xanh đậm, dài lối 2 tấc có nhiều gân phụ sít nhau màu nhạt hơn mầu lá, hoa trắng có nhiều tiểu-nhuư mầu vàng rất quyến rũ các loài bướm đốm. Trái Mù U cứng, tròn; thịt mầu vàng khi khô nhăn lại mầu xám xịt. Người ta có thể lấy hạt ép dầu thắp đền. Vỏ cây tiết ra mủ vàng, có người dùng trị ghẻ.
     
  • Cao chừng 4- 5m là loại cây còng tàn lá đặc-biệt với các lá nhỏ không mấy rậm rạp. Thân cây cũng đặc-biệt, nứt nẽ như những đường gân.

Hình 83 - Mù U (Cây cỏ Việt Nam, 1993.)
 

  • Ngoài ra có Cây Nhàu và Sồi Sim, tên La-tinh là Quercus Myrsinifolia Blum xuất-hiện rất ít ở vài đảọ Loại đại-mộc này cao tới 13- 15m, nhánh non không lồng, lá thon mầu mốc ở bên dưới và xám lại lúc khô.
     

Dưới thấp có hội-đoàn thảo-mộc thích-ứng với môi-trường cát hay cát pha phosphate như:

  • Họ Bìm-Bìm (Convolulaceae) gồm Ipomea Bilola và Ipomea Littoralis
     
  • Họ Hoà-Bản như Cỏ Chông (Spinifex Littereus), Cỏ Còng-Còng (Zoysia Matrella),
     
  • Cỏ Xạ-Tử (Sporobolus Virginicus.)
     
  • Cỏ Cú mà dân đánh cá thường đào lấy củ về làm vị thuốc Bắc.

Loại thảo-mộc được ngư-dân thích nhất là Nam-Sâm, rất quý vì có dược-liệụ Nam-Sâm, tên La-tinh là Boerhaavia Vipeus, là một loại cỏ phần dưới trườn trên đất, ngọn cất đầu lên. Lá có mấy phiến xoan tròn dài, chùm mang tụ-tán 3 hoa.

Hình 84 - Nam-Sâm là một dược-thảo mọc rất nhiều ở đảo Trường-Sa.
 

Chung quanh các đảo còn có nhiều thứ rong biển. Một vài loại có thể sử-dụng như phân xanh bón cây, một số khác có thể khai-thác như rau câu, một dược-liệu mà đồng-thời cũng là món ăn hàng ngày của một số dân-tộc Ðông-Nam-Á. Nguồn lợi này có thể đưa đến hình-thức xuất-cảng được. Có hải-tảo mệnh-danh là "Euchecha" dùng làm nguyên-liệu cho kỹ-nghệ sản-xuất mỹ-phẩm như kem thoa mặt.
 

11.3 - báo-cáo của Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh.

Năm 1973, Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh sau khi khảo-sát tổng-quát địa-lý, đã làm một phúc-trình về đảo Nam-Yết. Vì tình-trạng thực-vật ở đảo Nam-Yết không khác mấy so với các đảo khác trong vùng nên ta có thể dùng phúc-trình trên làm tiêu-biểu. Kỹ-sư họ Trịnh viết như sau: "Cây cối ở đây chỉ gồm một số ít loại có trái hoặc hạt từ các vùng duyên-hải Việt-Nam. Sarawak và các đảo lân cận trôi tấp vào đó mọc lên.

Sinh-cảnh thực-vật chính ở trên hòn đảo gồm có Dừa và một loại cây thích-hợp với môi-trường biển mọc chung quanh:

  • Tournefortia argentea Loài Boraginaceae
  • Cocos nucifera Loài Palmae

Ngoài ra còn một số ít cây khác với dây leo và cỏ, mọc rất tươi tốt gồm có:

  • Bàng Fagraea crenulata Maingay Loganiaceae
  • Nhàu Morinda angustifolia Roxb Rubiaceae
  • Mù-u Calophyllum Inophyllum Lin Guttleferae
  • Rau sam Portulaca Oleracea L. Portulacaceae
  • Thuarea involuta R. Br Gramineae

Kỹ-sư Trịnh-tuấn-Anh có cùng nhận-xét như giáo-sư Sơn-Hồng-Ðức về việc canh-tác. Hai ông cho rằng các cây ăn trái như mãng-cầu hay nhãn và một vài loại hoa-mầu phụ như rau cải có thể thích-hợp nhất. Cây trái nên trồng ở giữa đảo và rau cỏ nên trồng vào mùa mưa.

 

12 - TÀI-NGUYÊN.

Tài-nguyên Biển Ðông gồm có phân bón trên các đảo, cá tôm thu-hoạch ngoài biển và dầu khí nằm sâu dưới lòng biển:
 

12.1 - Phosphate.

Theo những bản phúc-trình về tài-nguyên thì khối dự-trữ phosphate ở quần-đảo Hoàng-Sa có thể tới hơn 4 triệu tấn, nghĩa là đủ cho nhu-cầu phân bón của Việt-Nam Cộng-hòa trong vòng 25 năm (nhu-cầu những năm 1970.) Số lượng do Kỹ-sư Trần-Hữu-Châu phỏng-định vào mùa thu năm 1973 là 3,595,000 m3 cho riêng 6 đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm. Trọng-lượng mỗi m3 phosphate là 1.5 tấn. Nếu chỉ khai-thác một nửa thôi, số lượng phosphate dùng được cũng tới 2,700,000 tấn.

Theo tài-liệu của Nha Khoáng-Chất (Bộ Kinh-Tế VNCH) thì số lượng dự-trữ phosphate (trên các đảo chính của quần-đảo Hoàng-Sa) như sau:

  • Hoàng-Sa, có từ 560,000 đến 1,000,000 tấn.
  • Hữu-Nhật có lối 1,400,000 tấn.
  • Quang-Ảnh có từ 700,000 đến 1,200,000 tấn.
  • Duy-Mộng có từ 600,000 đến 1,000,00 tấn.

    (trích bài của Giáo-sư Sơn-Hồng-Ðức, Ðặc-San Sử Ðịa 29, 1977, trang 204.)

Ở Trường-Sa, số lượng phosphate chưa được tính toán đầy đủ, nhưng ước-lượng cũng hàng triệu tấn. Công-việc khai-thác nguồn lợi này ở Trường-Sa đã nhiều lần dở dang. Trước thời 1975, người ta còn thấy trên các đảo ở Trường-Sa nhiều đống phân chim gom lại chưa di-chuyển đi hết.
 

12.2 - Ngư-nghiệp.

Hàng năm, vùng Biển Ðông thu-hoạch được khoảng 5 hay 6 triệu tấn hải-sản, chiếm vào khoảng 1/14 tổng-số sản-lượng của thế-giới (70 hay 80 triệu tấn.) Khả-năng thu-hoạch còn có thể cao hơn nhiều, ít nhất là 3 triệu tấn nữa.

Hình 85 - Mức-độ khai-thác ngư-nghiệp tại Biển Ðông, cao nhất tại vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lai và dọc duyên hải.
 

Cá thu

Loại cá đang được khai-thác có kế-hoạch quy-mô nhất là cá thu, danh-loại Thunnus Thynnus. Thịt cá này ăn thật ngon, bán rất được giạ Cá thu Yellowfin Tuna sống gần như khắp nơi ở Biển Ðông, suốt dọc từ phía bắc Hoàng-Sa đến phía nam Trường-Sa, di-chuyển theo mùa tới tận Mindanao và Borneo.

Chỉ riêng trong khu-vực phía đông của Trường-Sa, ước-lượng thu-hoạch hàng năm tới 50 triệu Mỹ-kim. Sau Yellowfin Tuna, các loại Skipjack Tuna, Bigeye Tuna, Mackerels cũng nhiều.

Ngoài các tàu đánh cá Phi-luật-Tân đang hoạt-động sôi nổi nhất trong kỹ-nghệ đánh cá thu, số tàu Trung-Hoa cũng đã tăng-gia nhiềụ Việt-Nam mới bắt đầu khai-thác.

Hình 86 - Bản-đồ chỉ-đẫn đường di-chuyển của các loại cá thu theo mùa qua những vùng biển do nhiều quốc-gia kiểm-soát.
 

Theo giáo-sư Vũ-Tự-Lập thì vùng biển Hoàng-Sa và Trường-Sa là đối-tượng tranh-chấp về ngư-trường. Những trữ-lượng quan-trọng về hải-sản đang bị các Tàu đánh cá Nhật-Bản và Nam-Hàn khai-thác (Atlas du Việt-Nam, Vũ Tự Lập & Christian Taillard, Reclus et La Documentation Francaise, 1994, trang 36.)

Hình 87 - Loại lưới bắt cá ăn nổi.

Hình 88 - Loại lưới bắt cá ăn chìm.
 

Ngoài cá thu, còn nhiều loại cá hay hải-sản khác có thể mang lại những nguồn lợi lớn như tôm, cua, mực, bào ngư, vi cá, rong biển ...

Trong thời-gian trước 1975, Nha Ngư-Nghiệp thuộc bộ Canh-Nông của Việt-Nam Cộng-Hòa đã lập một bảng danh-sách các hải-sản chính tại Biển Ðông như sau:

  • Cá ăn nổi: Cá Cơm, Cá Thu ống, Cá Bạc má, Cá Nhám, Cá Rựa, Cá Sọc mướp, Cá trích, Cá ngừ, Cá chuồn, Cá Nục, Cá Sòng.
     
  • Cá ăn chìm: Cá chim, Cá Chét, Cá Gộc, Cá Mối, Cá Thiều, Cá Ðổng, Cá Bàn xa, Cá Ðỏ gịa, Cá Hố, Cá Ðuối.

Hình 89 - Các loại cá Biển Ðông quan-trọng cho ngư-nghiệp. (Theo tài-liệu của Nha Ngư-Nghiệp VNCH, 1970.)
 

Biển Ðông khá kín gần như Ðịa-trung-hải, chỉ thông ra ngoài đại-dương qua các ngõ hăp như eo biển Malacca và Karimata ở phía Nam; các eo Balabac và Mindanao ở phía Ðông, eo biển Ðài-Loan và Bashi giữa Phi/ Ðài-loan phía Ðông Bắc. Ngày nay, sự tranh-chấp ngư-trường đang xảy ra. Tuy chưa có chiến-trận giữa các lực-lượng hải-quân nhưng đã có máu đổ của thường-dân trong vịnh Thái-Lan và nhiều ngư-phủ thuộc các quốc-tịch khác nhau bị bắt giữ và tù tội.

Một khi hải-phận kinh-tế 200 hải-lý được tất cả các quốc-gia duyên-hải quyết-định thi-hành triệt-để, mà ngày đó không còn xa, sự tranh-chấp về chủ-quyền đánh cá sẽ gia-tăng.

Tình-trạng chủ-quyền trên Biển Ðông còn rất mập mờ. Ở ngoài khơi, tàu thuyền đánh cá các nước hiện chen kẽ nhau, không biết là mình đang đánh cá trên hải-phận nước nào.

Theo luật-gia Mark J. Valencia, Việt-Nam phải đối đầu nhiều nhất với Thái-Lan và hai nước Trung-Hoa trong những tranh-chấp về hải-phận đánh cá.

Ngày nay nhờ Luật Biển UNCLOS được thi-hành, các nước quanh vùng Biển Ðông sẽ có cơ-hội ngồi lại giải-quyết những tranh-chấp về ngư-nghiệp trong vùng EEZ.

Theo điều-luật số 62 (UNCLOS, Article 62), Việt-Nam sẽ phải xác-định tổng-số sản-lượng hải-sản dự-trù trong khu-vục kinh-tế của mình và ước-lượng khả-năng thu-hoạch của ngư-dân. Hiện nay Việt-Nam chưa phát-triển đủ mạnh về kỹ-thuật đánh cá nên còn lại một số lượng hải-sản thặng-dư đáng kệ Số hải-sản này nếu không sử-dụng cũng tự-nhiên bị tiêu-tán, nên không thể để uổng-phí mà phải nhường lại cho các quốc-gia khác trong trường-hợp được yêu-cầu.

Những nước nội-địa như Ai-Lao cũng có thể được chia sẽ tài-nguyên của biển-cả. Chính-phủ nước này cần khuyến-khích dân-chúng theo ngành hải-ngư-nghiệp. Quốc-gia duyên-hải thuận-lợi nhất cho họ trong việc chia sẽ số hải-sản thặng-dư là Việt-Nam. Ngoài ra, dân nội-địa sẽ có thể được quản-trị việc khai-thác ở những vùng biển chung, nằm bên ngoài ranh-giới hải-phận của những quốc-gia duyên-hải.

Hình 90 - Vùng biển "quốc-tế" nhỏ bé nằm ngoài những vòng tròn 200hl tính từ Hoàng-Sa, Pratas, Philippines và Trường-Sa.
 

Việt-Nam đã có thỏa-ước về đánh-cá trong hải-phận với Nga-Sô, Úc-đại-lợi, Ðại-Hàn, Thái-Lan. Hải-sản trong vịnh Thái-Lan đã bị khai-thác quá đáng gần như kiệt-quệ, nên ngư-phủ Thái-Lan rất thềm khát nguồn-lợi biển Việt-Nam.

Trong trường-hợp tranh-chấp Hoàng-Sa Trường-Sa được giải-quyết dứt khoát, nước nào có chủ-quyền dù là một hay toàn thể quần-đảo đó cũng có quyền đòi-hỏi "chủ-quyền 200 hải-lý kinh-tế" này tính từ đảo của họ. Các viện đại-học Hawai và Berkeley đã phác-họa ra là "vùng biển quốc-tế" thâu lại rất nhỏ. Dải biển diện-tích không đáng kể này nằm ở phía đông của Quần-đảo Hoàng-Sa. Nếu như một nước nào đó lại lấy lý-do kéo dài thêm hải-phận (tối-đa là 350 hải-lý) thì chẳng còn sót lại gì!
 

12.3 - Hải-sản phụ

Trong nhiều ngàn năm qua, người dân duyên-hải Việt-Nam đã nhờ những hải-sản Biển Ðông mà sinh-tồn. Ngoài những hải-sản chính được khai-thác nhiều như đã kể ở trên, nhiều gia-đình Việt-Nam còn sống vào sự khai-thác thương-mại các hải-sản phụ của Biển Ðông. Xin kể một số hải-sản phụ như: Vi cá, Yến sào.
 

12.3.1 - Ốc biển.

Vỏ ốc với nhiều hình dáng và mầu sắc đặc-biệt thường được mọi người ưa thích, dùng để trưng bày, chận sách. Một thời, vỏ ốc vỏ sò đã được con người sử-dụng như vật trao đổi giống như chúng ta đang dùng tiền đồng tiền giấy ngày nay. Vỏ ốc lớn dùng làm tù-và là một nhạc-cụ rất thường thấy ở đồng quê và trong quân-ngũ thời xưa.

Biển Ðông cung-cấp những loại ốc cho thịt rất ngon và những loại ốc cho vỏ có giá-trị về tiền-bạc.

Các vỏ ốc Xà-cừ mầu sắc lóng lánh khi cắt ra thành miếng, dùng để cẩn lên các tủ thờ, bàn ghế, câu đối, tranh, liễn... Miếng xà-cừ mầu trắng như bạc nhưng nhờ phản-chiếu ánh-sáng thành nhiều mầu sắc rất đẹp.

Ốc Bào ngư (Abalone) hay cửu-khổng vì trên vỏ có 9 cái lỗ bài-tiết. Thịt ốc bào ngư không những nổi tiếng thơm ngon mà còn là một vị thuốc trị các bệnh về mắt như quáng gà, thông-manh, mắt mờ rất hay.

Hình 91 - ốc bào-ngư và vài loại sò ốc khác.
 

12.3.2 - Ðỉa biển.

Ðỉa biển hay Ðồn-đột là một loại nhuyễn-thể không xương. Ðỉa biển phát-triển mạnh nơi các vùng biển nhiệt-đới như Biển Ðông. Giống như cá mực phun mực đen khi bị tấn-công, điả biển phun ra một loại chất độc mầu trắng. Người Tàu khai-thác loại hải-sản này rất quy-mô, họ gọi là Hải-sâm. Tại các tửu-lầu, Hải-sâm là món ăn quý nên bán rất được giạ Người Việt cũng rất thích đồn đột, đồng-bào ta làm gỏi đồn-đột, hầm đồn đột với giò heo, nấu đồn đột trong những món lẩu thập-cẩm...

Hình 92 - Ðồn-đột và một vài loài nhuyễn-thể khác.
 

12.3.3 - Ruộng muối.

Trung-bình một lít nước biển chứa tới 35gram muối. Người ta có thể cho nước biển bay hơi tại ruộng muối. Khi nước bay hết, một lớp muối kết-tinh đọng lại dưới ruộng. Nhiều làng ven biển Việt-Nam sinh-nhai bằng nghề này.

Trong một phạm-vi nhỏ hẹp, quân-nhân trú-đóng Trường-Sa có thể khai-thác nghề làm muối này.
 

12.4 - Trữ-lượng dầu khí Biển Ðông.

Một số học-giả cho rằng báo-cáo đầu-tiên về sự hiện-hữu dầu khí ở Biển Ðông là kết-quả của các đoàn nghiên-cứu thăm-dò của Liên-hiệp-quốc trong những năm cuối thập-niên 1960. Thời-gian trước đó, nhiều giáo-sư địa-chất thuộc viện Ðại-học Sài-Gòn đã quả-quyết là theo kiến-thức chuyên-môn của họ, Việt-Nam không có dầu lửa. Cho đến đầu thập-niên 1970, một số học-giả người Việt vẫn không tin rằng dầu hỏa có nhiều như những báo-cáo thăm dò cho biết. Họ nghĩ rằng dầu hỏa nếu có thì chỉ như những hạt sương buổi sáng đọng trên khắp ngọn cỏ, lá cây ngoài cánh đồng; chuyện "không-tưởng" của họ kể ra là kỹ-nghệ khai-thác làm sao thu hút được tất cả các giọt dầu rải rác đâu đó như vậy mà mang ra bán thương-mại!

Gần đây niềm tin-tưởng lại khác hẳn. Câu chuyện "Biển Ðông có dầu" không những được coi là điều hiển-nhiên mà còn có những người tin-tưởng rằng trữ-lượng dầu khí Biển Ðông lớn không thua gì trữ-lượng toàn thể vùng Trung-Ðông.

Dầu lửa là một chất hữu cơ. Nước ta lại là vùng mà thực-vật và sinh-vật phát-triển rất phong-phú. Nhiều cây cối và sinh-vật chỉ có ở nước ta mà không sinh-tồn được nơi khác. Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ cho biết "thực vật chúng Việt-Nam có lẽ gồm vào khoảng 12,000 loài, không kể rong, rêu, nấm. Ðó là một trong những thực vật chúng phong phú nhất thế giới. Với một diện tích to hơn nước ta tới ba mươi lần, Canada chỉ có vào 4,500 loài, kể cả loài du nhập".

Chúng ta lại biết rằng trong những khoảng thời-gian khi Biển Ðông khô-cạn, rừng cây nhiệt-đới trong vùng còn lớn rộng hơn ngày nay rất nhiều. Nếu thực-vật nhiều tức chất hữu-cơ kết-tầng trong đất đá phải phong-phú, người ta có thể suy-luận rằng số lượng dầu lửa và khí đốt năm dưới lòng đất và lòng biển không thể nào ít oi được.

Sau nhiều khảo-sát, ngày nay người ta đã vẽ được rõ ràng bản-đồ những khu-vực thủy-tra-thạch kết từng. Các công-ty dầu lửa cũng khoan thử nhiều nơi và ghi-nhận những túi dầu khí tại duyên-hải Hoa-Nam, trong vịnh Bắc-Việt, ngoài khơi Nam-phần, duyên-hải Mã-Lai- Brunei- Palawan, vùng Bắc Hoàng-Sa, bãi Cỏ Rong ở Trường-Sa.

Vùng biển bao-la sâu trên 4,000m nằm giữa trung-tâm Biển Ðông cũng hứa hăn chứa đựng những kho dầu khí khổng-lồ. Vì kỹ-thuật khai-thác những vùng biển sâu còn quá tốn-kém, người ta chú-tâm vào những vùng nông-cạn. Hai vùng nằm trên thềm lục-địa Việt-Nam làm Trung-Cộng thềm khát nhất nằm trong vịnh Bắc-phần và khu-vực bãi Tứ-Chính ở ngoài khơi Nam-phần.

Hình 93- Những vùng kết-tầng thủy-tra-thạch và những vùng biết có dầu khí hay đang được khai-thác. Chỉ vì sự hiện-hữu của dầu lửa mà Trung-Cộng quyết chia lại Vịnh Bắc-Việt, chiếm bãi Tứ-Chính cùng Hoàng-Sa và Trường-Sa.
 

Sau đây là vài con số ước-lượng:

Vùng Biển Ðông rộng tới 1,460,000 dậm vuông chia ra hai phần gần bằng nhau:

  • 720,000 dậm vuông cho biển và
  • 740,000 dậm vuông thuộc thềm lục-địa.

Trên thềm lục-địa, tại những khu-vực mà các lớp thủy-tra-thạch kết tầng dầy tới 11.000 ft, thường thường là có chứa dầu hỏa hay khí đốt. Với kỹ-thuật hiện-đại, công việc khai-thác tương-đối dễ dàng nơi những chỗ nông cạn này.

Theo như lý-thuyết của L. G. Weaks thì cách ước-lượng như sau:

  • Vào khoảng 1.75% thềm lục-địa (12,950 dậm vuông) mỗi dậm vuông chứa 896,000 thùng dầu lửa: 896,000 X 12,950 = 11,603,200,000 thùng.
     
  • Vào khoảng 15% thềm lục-địa (111,000 dậm vuông) mỗi dặm vuông chứa 320,000 thùng dầu lửa: 320,000 X 111,000 = 35,520,000,000 thùng.

Tổng-số trữ-lượng dầu hỏa của thềm lục-địa Biển Ðông theo cách tính-toán này sẽ là 47,123 triệu thùng.

Dù phỏng-định một cách bi-quan nhất, thềm lục-địa Việt-Nam chiếm không dưới 20% số lượng này.

Ngoài thềm lục-địa, vùng sâu hơn nằm giữa Biển Ðông là nơi tích-tụ những lớp thủy-tra-thạch rất dầy. Những hãng dầu cho biết trữ-lượng dầu khí ở dưới các vùng lòng chảo "basin" còn lớn hơn thềm-lục-địa nữa. Hiện nay kỹ-nghệ khai-thác dầu dưới lòng biển sâu còn chưa được hoàn-bi.

Các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa tương-đối nông cạn nên không nằm lọt vào trong những lòng chảo đó, tuy nhiên khi tính toán đến ranh-giới kinh-tế 200 hải-lý người ta phải tính từ đảo, nên quốc-gia nào có chủ-quyền hai quần-đảo sẽ sở-hữu luôn cả khối tài-sản khổng-lồ chưa khai-thác này.

Nếu tổng-kết các ước-lượng này, người ta có một con số quá sức lớn lao mà trước đây ba chục năm không ai ngờ tới!

Giữa quần-đảo Hoàng-Sa và đảo Hải-Nam, gần khu-vực mà Trung cộng đã chiếm của ta, họ đã tìm thấy một mỏ khí đốt trữ-lượng 90 tỷ mét khối, hiện đang khai-thác (lịch Văn-Hóa Việt-Nam Tổng-Hợp, 1988.)

Ngay giữa vùng quần-đảo Hoàng-Sa, Trung-Cộng cũng khởi-sự thăm dò sau khi xâm-lăng. Trên nhiều bản-đồ về tình-trạng dầu lửa, người ta thấy Trung-Cộng cho in hình một dàn khoan ở đọ Tuy vậy sự khai thác dầu khí có lẽ chưa thực-sự tiến-hành.

Riêng trong khu-vực Trường-Sa, hai khu-vực đã được biết chắc chắn là có dầu khí:

  • 550 triệu thùng vùng phía Tây bãi Tứ-chính trên thềm lục-địa Việt-Nam.
     
  • Bãi Cỏ Rong do Phi-luật-Tân khai thác.
     

12.5 - Dầu khí trong hải-phận do Việt-Nam kiểm-soát.

Không kể những khu-vực bị Trung-Cộng chiếm-đóng cũng như các vùng biển ngoài khơi đang tranh-chấp, tài-nguyên về dầu khí trong lòng biển Việt-Nam đã được ước-tính qua những số-lượng như sau:

  • Theo tiến-sĩ Charles Johnson thuộc viện Est-West Center, trữ-lượng dầu hỏa Việt-Nam ước-lượng vào khoảng từ 1.5 đếm 3.0 tỷ thùng. Ðể so sánh, ta lấy trường-hợp các nước đang sản-xuất dầu lửa trong vùng như Úc-đại-Lợi và Mã-lai-Ạ Hai quốc-gia này có trữ-lượng lần lượt là 1.7 và 3.0 tỷ thùng. Về khí đốt, trữ-lượng của Việt-Nam có thể nhiều tới 10,000 tỷ cubic feet. Ba vùng giếng dầu khí đã được thăm dò đầy đủ và đang được khai-thác có trữ-lượng như sau:
     
    • Bạch-Hổ 175-300 triệu thùng,
    • Ðại-Hùng 300-600 triệu thùng,
    • Rồng 100-150 triệu thùng.

(Investing in VietNam: Oil and Gas Exploration, Michael J. Scown, East Asian Executive Reports April 1992: 23.)

Hình 94 - Các lô phân-chia để khai-thác dầu-hỏa ngoài khơi Nam-phần. Lưu-ý khu-vực tranh-chấp Việt-Hoa tại vùng Bãi Tứ-Chính (Vạn-An) và vị-trí các giếng dầu: Rồng, Dừa, Bạch-Hổ, Ðại-Hùng.
 

Những tin-tức lạc-quan vào cuối năm 1994 cho hay sản-lượng dầu khí của Việt-Nam đã vượt qua mặt Trung-Cộng và phỏng-định Việt-Nam có số trữ-lượng dầu khí khổng-lồ, vào hàng thứ tư trên thế-giới. (The United States and Vietnam: Overcoming the Past and Investing in the Future, Thomas R. Stauch, báo The International Lawyer, Winter 1994: 1025.)
 

12.6 - Những tài-nguyên Biển Ðông trong tương-lai.

Theo đà phát-triển khoa-học kỹ-thuật, nhiều tài-nguyên quý-giá sẽ dần dần được khai thác từ lòng biển. Con người sẽ đào thêm dầu khí ở những vùng biển sâu hơn, lấy được nhiều loại quặng mỏ cần-thiết cho kỹ-nghệ.

Người Hoà-Lan với kỹ-thuật đê-điều ngăn-chận nước biển, từ các thế-kỷ trước đã chiếm thêm được nhiều đất đai sinh sống. Người Nhật ngày nay khởi-sự canh-tác quy-mô một vài loại thảo-mộc sống trong nước mặn như rong biển, nhiều loại sò hến và đặc-biệt phát-đạt trong ngành sản-xuất ngọc trai nhân-tạo.

Nhiều thí-nghiệm cho thấy trong tương-lai, loài người sẽ có thể sinh-sống trong lòng biển. Những khu định-cư ngoài không-gian xem ra xa vời hơn là những thành-phố nằm dưới mặt nước. Thế-giới biển-cả rồi ra sẽ trở nên sinh-động đối với loài người không thua gì thế-giới trên đất liền.

Người Việt đã phải mất nhiều thế-kỷ mới vượt hết giải núi Trường-Sơn để sát-nhập nửa phần miền Nam vào với lãnh-thổ. Nhưng rồi đây, theo với đà phát-triển chung của nhân-loại, có lẽ dân ta sẽ không quá tốn-kém thì-giờ để thâu-nhận Biển Ðông làm cho căn nhà Việt-Nam rộng rãi hơn, giàu có hơn.

Nhiều loại năng-lượng thiên-nhiên của biển cả đang được nghiên-cứu để con người sử-dụng. Không bao lâu nữa, những dân duyên-hải như người Việt sẽ có nhiều năng-lượng rẽ tiền lấy ra từ sóng, gió, thủy-triều, từ sự chênh-lệch nhiệt-độ của nước biển ở trên mặt và dưới đáy biển, sự sai-biệt độ mặn giữa nước ở sông và nước ngoài khơi v.v...

Hình 95 - Một số rong biển quen thuộc nhất của ngành canh-tác biển.
 

Khác với việc trồng cấy trên mặt đất, người ta có một "hải-gian" bao la để canh-tác "nông-phẩm" biển theo cả ba chiều. Những nhà viết chuyện khoa-học giả-tưởng còn nghĩ rằng trong khoảng vài thế-kỷ tới, nhân-loại sẽ bắt đầu cư-trú thường-trực trong lòng biển cả. "Người biển", nhờ tiến-bộ khoa-học, sống thảnh-thơi và mọi sinh-hoạt cũng bình-thường như chúng ta đang sống ngày nay trên cạn.

Lãnh-hải sẽ càng ngày càng có thêm giá-trị.

Vũ-Hữu-San

(Xem tiếp phần IV)