TRỜI VÀ ÐẤT TRONG CHIẾC BÁNH NGÀY XUÂN

Dương Thiệu Tống

Que Huong

 

"Trong trời đất không có vật gì quí bằng gạo, vì gạo là của để nuôi dân... nếu lấy gạo nếp gói làm hình tròn để tượng trưng cho trời, hoặc gói làm hình vuông để tượng trưng cho đất, ở trong làm nhân cho ngon; bắt chước hình dạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý nói ơn trời đất phát dục vạn vật, như thế thì lòng cha sẽ vui, tôn vị chắc được”  (Trích Lĩnh Nam chích quái  của Trần Thế Pháp).

Hình vuông của đất và hình tròn của trời, như trong đoạn văn trích dẫn trên, xuất phát từ hai tài liệu cổ xưa nhất của dân Lạc Việt là Lạc Thư (hình tròn của trời) và Hà Đồ (hình vuông của đất).

Cả hai hình vẽ Hà Đồ và Lạc Thư đều gồm những chuỗi "rỗng" và "đặc", giống như những chuỗi "rỗng" và "đặc" nối kết nhau trên hầu hết các trống đồng Đông Sơn của dân Việt. Hà Đồ và Lạc Thư đều nói lên sự hình thành của trời (Lạc Thư), đất (Hà Đồ) và vạn vật. Trống đồng Ngọc Lũ cũng nói lên sự hình thành của trời, đất, vạn vật (chim, hươu, người) theo quan điểm y hệt như vậy. Tất cả đều đặt căn bản trên nguyên lý "rỗng" (dương), "đặc" (âm), tương sinh, tương khắc, tương hoà. Như vậy, sở dĩ vua Hùng trao ngôi báu cho Lang Liêu ắt không phải vì Lang Liêu đã dâng một loại bánh ngon cho vua Hùng, mà chính vì Lang Liêu đã nắm được ý nghĩa của sự hình thành trời đất, vạn vật, tức là hiểu được cách giải quyết mâu thuẫn giữa đất và trời, giữa người và vạn vật, giữa con người và nhân quần xã hội. Và như vậy Lang Liêu xứng đáng được trao ngôi báu và chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Tiếng nói của thần nhân chính là tiếng nói của lương tâm, nhắc nhở cho Lang Liêu cái nguyên lý sinh thành ấy để làm sao cai trị dân cho hợp với "lẽ trời đất" và lòng người. Tinh thần "vuông tròn" ấy của thời đại vua Hùng được sử gia Lê Tung mô tả như sau: "Vua thì lấy đức trị dân, giũ áo khoanh tay (tức là chỉ theo phép thường mà trị nước, không bày đặt chính lệnh phiền nhiễu dân); dân thì cày ruộng, đào giếng, ra ngoài thì làm lụng, trở về nhà thì nghỉ ngơi, chẳng phải là phong tục thái cổ của Viêm Đế ư?". Phan Huy Chú cũng cho biết: "Vua tôi cũng đi cày, cha con tắm cùng sông, không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền thứ bậc".

Tư tưởng đoàn kết, bình đẳng giữa con người, sự hoà hợp các mâu thuẫn, tượng trưng bằng các hình thể vuông tròn của đất và trời, theo quan niệm "vạn vật nhất thể" của Lạc Thư và trống đồng ảnh hưởng hàng nghìn năm sau đến chính sách của các vua nhà Lý trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa các vua, chúa, quần thần, giữa người dân trong nước, và giữa dân Việt với các dân tộc khác ở biên thuỳ.

Việc vua Hùng ưu chuộng chiếc bánh chưng, bánh giầy của Lang Liêu hơn các của ngon vật lạ của các công tử khác phản ánh tinh thần ưu chuộng thực tế của dân Việt, mà điều thực tế nhất là "cơm gạo để nuôi dân", đặt lên trên sự xa hoa, phù phiếm.

Có lẽ do tinh thần ấy mà thời đại vua Hùng, mặc dầu đã hình thành một nhà nước sơ khai, đã qua thời kỳ đồng thau, đồ sắt mà vẫn không để lại cho ta ngày nay một di tích nào của các đền đài, lăng tẩm, dù nhỏ bé. Điều này khiến cho một số người tỏ ý hoài nghi về lịch sử bốn nghìn năm văn hiến của dân tộc ta. Nhưng nếu ta nhìn trở lại lịch sử của các dân tộc đã từng xây dựng những kỳ quan thế giới do công sức của hàng vạn dân công nô lệ, như các kim tự tháp của các vua Pharaong xứ Ai Cập hay vườn treo của các bà hoàng xứ Assyria..., thì ta thấy rằng đó cũng là những cái mốc đánh dấu sự bắt đầu sụp đổ của các triều đại, mở đầu cho các cuộc xâm lăng liên tiếp dẫn đến sự đồng hoá, phân tán hay tiêu diệt các dân tộc nguyên thủy.

Hai phạm trù "trời" và "đất", như trong lời dạy của thần nhân, nói lên sự quí chuộng đất đai, cây cỏ, lòng tin tưởng và lạc quan của một dân tộc đã từng phát hiện kỹ nghệ trồng trọt sớm nhất trên thế giới, theo như thuyết của Carl Sauer (1952) và được xác nhận bởi các công trình nghiên cứu của Chester Gorman, Hamilton Parker và nhiều người khác từ 1963-1966 trong vùng Đông Nam Á. Đó là niềm tin tưởng lạc quan của nhà nông với công việc làm không đem đến hiệu quả tức thì. Gặp thời tiết nhất định trong một năm, tuỳ theo vị trí của ngôi sao đã định, họ bắt đầu làm đất gieo hạt giống, rồi kiên nhẫn chờ đợi. Tình cảm sâu đậm giữa con người và đất đai do đó nảy sinh và được khơi dậy hàng năm vào những ngày Tết qua hình thù và ý nghĩa của chiếc bánh chưng, và cả qua những điều cấm kỵ liên quan đến việc sử dụng đất đai vào những ngày đầu năm.

Cuối cùng, nhưng không phải là kém quan trọng, qua hình dáng bánh chưng, bánh giầy không thể không liên tưởng đến ý nghĩa của hai chữ "vuông tròn" trong ngôn ngữ ta. Thì ra phát xuất từ quan niệm nguyên thuỷ về sự sinh thành, tổ tiên ta đã khéo lựa chọn hai thứ phẩm vật tượng trưng dùng trong việc cúng lễ trời đất, ông bà đã nhắc đến tư tưởng hòa hợp của hai hình thể: "rỗng" và "đặc", "vuông" và "tròn". Tuy tương khắc nhau như "trời" và "đất", "đàn ông" và "đàn bà", chúng có thể và phải kết hợp với nhau theo lẽ "trời đất phát dục vạn vật" như lời dạy của thần nhân cho Lang Liêu. Đó là "lẽ vuông tròn" nói lên sự tốt đẹp trong tình nghĩa vợ chồng và trong mối quan hệ như câu thơ của Nguyễn Du:

Khuôn thiêng biết có
vuông tròn hay chăng?

hay câu:

Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.

Vậy thì hai chữ "vuông tròn" có lẽ là lời chúc tụng đầu xuân súc tích và tốt đẹp nhất dành cho tất cả mọi người khi năm mới sắp đến.

Dương Thiệu Tống