THỬ BÀN VỀ PHƯƠNG PHÁP
PHÁT TRIỂN VĂN HỌC VIỆT NAM
ÐƯƠNG ÐẠI

Dũng Vũ

 

Trong bài phân tích "Thử bàn về chất lượng phát triển văn học Việt Nam đương đại"[1], một cách tổng thể, hẳn chúng ta đã nhìn thấy các nguyên nhân đã gây khó khăn cho sự phát triển nền văn học Việt Nam đương đạị Từ một vấn đề gốc, nhiều vấn đề con đã nảy sinh và cứ thế tiếp tục lan truyền. Không những tuyến tính, sự liên đới của chúng đã tạo thành một mạng lưới phức tạp:

"Yếu kinh tế, tài chính, thời gian, khiến tính nghiệp dư trong văn học phát sinh. Tính nghiệp dư không thể tạo chất lượng tốt, từ đó mới có phê bình, đóng góp ý kiến, thông tin. Thế nhưng, nếu những cố gắng ấy không hiệu quả, vấn đề mới lại xuất hiện: giao lưụ Giao lưu bị trục trặc thì rất khó làm việc chung để tìm phương cách giải quyết vấn đề. Cộng thêm vào, yếu tố chính trị luôn ảnh hưởng mạnh mẽ đến nội dung, tự do sáng tạo của người viết, và quyết định luôn trình độ của người đọc, người viết. Trình độ dân trí giới hạn, ngược lại, lại quyết định chất lượng. Không những vậy, chính trị còn gây chia rẽ, khiến hợp tác chung càng khó khăn thêm. Chưa kể trong bối cảnh phát triển "multimedia" hấp dẫn ồ ạt ngày nay, nhu cầu đọc sách có chiều hướng giảm sụt. Cả cơ hội thuận lợi Internet vẫn chưa được tận dụng để giới thiệu tinh hoa Việt Nam ra thế giới, ...".

Tất cả đều là vấn đề và là thử thách to lớn đối với những người thực tâm muốn đưa nền văn học Việt Nam tiến lên. Thế thì làm sao để giải quyết được vấn đề đó?

Trong bài viết này, người viết xin được góp một vài suy nghĩ. Tất nhiên những suy nghĩ chủ quan sau còn nhiều thiếu sót, cần được góp ý, phê bình xây dựng, bổ sung của các bạn miễn là làm sao cuối cùng, chúng ta sẽ lập được những bài bản thực tế, khả thi, hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề dai dẳng ấy.

Trước khi vào chi tiết, có lẽ cần lưu ý một điềụ Trên lý thuyết, khi muốn giải quyết tận gốc vấn đề, cách dứt khoát nhất là triệt hạ vấn đề gốc, tức cái nguyên nhân chính gây ra những vấn đề khác. Song trên thực tế, nhiều khi không lý tưởng vậỵ Chẳng hạn, trong hoàn cảnh chúng ta, làm sao có thể dứt điểm hai vấn đề gốc to tướng là kinh tế và chính trị? Rất khó. Bởi không thể dứt điểm vấn đề gốc một cách trực tiếp và tuyệt đối, chỉ còn cách gián tiếp và tương đối là nhắm vào những vấn đề con xuất sinh từ đó, quyết định điểm nào tùy theo ưu tiên có thể giải quyết được trên cơ sở nhờ những mặt mạnh khác nhằm giảm bớt sự nghiêm trọng của vấn đề gốc và hy vọng giải tỏa cả vấn đề gốc. Bằng phương pháp gián tiếp này, khi đương đầu với một vấn đề con trong mạng lưới, cũng có nghĩa là đồng thời làm lung lay sức ảnh hưởng của các vấn đề phụ thuộc. Ðiều ấy có thành công hay không còn tùy vào khả năng chọn lựa điểm xuất phát. Theo tôi, khả thi nhất là giải quyết tính nghiệp dư.


Nghiệp dư là gì?

Thông thường, nghiệp dư được hiểu là "không chuyên nghiệp, không thuộc nghề nghiệp chính thức" (Từ điển Tiếng Việt: Minh Tân, Thanh Nghị, Xuân Lãm [2]). Nếu chấp nhận định nghĩa ấy, thì suy ra, chất lượng của hoạt động nghiệp dư phải kém hơn chất lượng của hoạt động chuyên nghiệp. Ví dụ một đội bóng đá nghiệp dư không thể chơi hay bằng một đội bóng đá chuyên nghiệp. Chất lượng của hoạt động nghiệp dư là chất lượng ở mức sở thích (hobby), trong khi đó chất lượng của hoạt động chuyên nghiệp là chất lượng của dân nhà nghề. Tuy vậy, điều này chỉ tương đối đúng. Có trường hợp dù nghiệp dư nhưng chất lượng vẫn cao và đôi khi còn cao hơn cả chuyên nghiệp. Trường hợp ngoại lệ này, "nghiệp dư một cách thiên tài", chúng ta không bàn đến. Ðiều đáng quan tâm ở đây là làm thế nào để nâng cao chất lượng của người không chuyên nghiệp cũng như người thuộc nghề nghiệp chính thức nhưng lại hoạt động như một người nghiệp dư. Hãy gọi chung là người hoạt động nghiệp dư.


Vấn đề nghiệp dư

Vấn đề gốc của người hoạt động nghiệp dư có tri thức và nhiệt tâm là do bị hoàn cảnh cuộc sống chi phối, thời gian trở nên eo hẹp: thời gian đọc, viết và tư duỵ Ðọc để học hỏi và cảm nhận giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Viết để tập luyện, thử nghiệm sáng tác và sáng tác. Cả hai công việc đọc và viết luôn đòi hỏi tư duỵ Tư duy đối với việc đọc là nhằm tiêu hóa những gì đã học và để thẩm thấu những giá trị thẩm mỹ. Tư duy đối với việc viết là bằng cách nào tập luyện cho tốt, viết cho hay, thử nghiệm gì, sáng tác gì, chứa nội dung gì, theo trường phái gì, để làm gì, v.v.. Tổng quát, như một nhu cầu tinh thần cần thiết, con người cần tư duy để bộc lộ, phát triển tư tưởng. Tư tưởng càng hay, càng lạ, càng sâu rộng, càng già dặn, càng hướng đến tinh thần chứa bản chất người thì chất lượng của nó càng caọ Loại trừ vô thức, trực giác, có thể nói kết gọn rằng, muốn viết thật hay, người viết phải vận dụng tâm trí, phải đọc nhiều, viết nhiềụ Tất cả đều đòi hỏi sức tập trung, sự liên tục và thời gian.


Giải pháp nâng cao việc đọc

Ðối với việc đọc, theo tôi, vấn đề trước hết cần được giải quyết là giúp người viết không chuyên nghiệp học hỏi để nắm vững kiến thức căn bản văn chương rồi từng bước nâng caọ Thực tế cho thấy, họ không có thì giờ đọc sách nhiều như dân chuyên nghiệp. Muốn đọc cũng không biết đọc gì trước, saụ Vì thế, cách tốt nhất là làm sao trang bị cho họ những kiến thức tối thiểu mà ngành văn chương trong đại học thường dùng để giảng dậy theo thứ tự giáo trình. Chỉ khác ở đây, thông tin nằm ở dạng cô đọng. Ðể làm được việc này, chỉ còn trông mong vào sự tình nguyện của người chuyên nghiệp được đào tạo từ đại học văn chương và đang làm việc chính thức trong đại học về ngành nàỵ Cả người chuyên nghiệp do hoàn cảnh khó khăn nào đó lại hoạt động một cách nghiệp dư cũng cần được thông tin.


Vài đề nghị cụ thể giúp nâng cao việc đọc:

  1. Giới thiệu những kiến thức nhập môn (bằng những bài luận văn xúc tích).
  2. Giới thiệu dần những kiến thức cao hơn, sâu hơn.
  3. Từng bước giúp người viết tự tìm hiểu thêm.
  4. Giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của từng trường phái, với từng thể loại, kỹ thuật, ... cộng những bài phê bình.
  5. Giới thiệu những tác phẩm có chất lượng cao (Việt Nam hoặc quốc tế được chuyển ngữ).
  6. Cập nhập thông tin văn chương hiện tại của thế giới.
  7. Lập thư viện văn chương, tức tất cả các thông tin, tài liệu, luận văn, giới thiệu, ... về văn chương sẽ được tập trung vào một mục trên HomePage để người đọc có thể tham khảọ

Cần để ý vài điểm then chốt trong việc thông tin:

  • Các bài viết nên xúc tích bởi người đọc ít thì giờ.
  • Dễ đọc, gây hứng khởi, xúc tác người đọc tò mò, tìm hiểu sâu bởi muốn người đọc dễ hấp thu, tự tìm hiểụ Xin hiểu, dễ đọc đây không có nghĩa là không cần suy nghĩ.
  • Ðề tài dù dễ hay khó, các bài viết phải đạt chất lượng thật cao, chẳng hạn trình độ một bài nghiên cứu, tránh hời hợt bởi muốn nâng cao trình độ người đọc.
  • Thông tin nên có tính thứ tự quan hệ, từ dễ đến khó bởi muốn người đọc đỡ lúng túng trong việc tìm hiểu.
  • Khai thác tối đa thông tin miễn phí trên Internet. Phổ biến mạnh mẽ những thông tin hiện đại nhất để người đọc có thể thường xuyên bám sát được tình hình phát triển văn học mới nhất của thế giới.
  • Phong phú hóa thư viện văn chương bằng những bài viết giá trị của mọi người viết.

Theo tôi nghĩ, nếu người chuyên nghiệp có cơ hội giảng dậy trong đại học, thì việc thực hiện những bài luận văn hoặc giới thiệu các thông tin như vậy không khó; sinh viên có thể làm được.


Thực hiện được các việc trên, chúng ta đạt được những mục đích gì?

  1. Người đọc tối thiểu sẽ nắm được kiến thức căn bản ngành văn chương (lịch sử, kỹ thuật, thể loại, trường phái, mỹ học, ứng dụng, ...).
  2. Nhờ căn bản, người đọc có thể tiếp tục tiếp thu thêm những kiến thức khó hơn, từ đó chất lượng kiến thức được nâng cao.
  3. Nhờ kiến thức, người đọc càng dễ thẩm thấu giá trị tác phẩm, càng cảm thấy thích thú. Ðược vậy, trình độ tư duy và cảm nhận thẩm mỹ tự động càng được nâng cao.
  4. Người đọc có cơ hội tiếp cận môi trường văn chương thế giới, nhất là người trong nước.

Ðạt được những kết quả ấy, chắc chắn kiến thức văn chương và trình độ đọc của người hoạt động nghiệp dư sẽ được nâng cao rõ rệt. Song, dù đáng lạc quan, cũng nên để ý một điểm khá quan trọng là làm sao để người cầm bút đừng bị ảnh hưởng quá mạnh bởi một lý thuyết, tư tưởng mà đánh mất cái riêng của mình. Mất cái riêng, người cầm bút dễ nhiễm tính sao chép, dễ mất tính sáng tạọ


Giải pháp nâng cao việc viết

Trước khi tìm giải pháp thực tế để sự phát triển văn học mang ý nghĩa văn chương một cách đích thực, hãy thử tìm hiểu sơ vài mục đích và chất lượng tiêu biểu nơi người viết:

  • Có người viết không nhằm mục đích góp phần phát triển văn học mà dụng phương tiện văn học, phục vụ cứu cánh chính trị, tuyên truyền.
  • Có người viết đủ thứ ngoài chính trị, viết cho vui rồi đăng báo, đăng liên tục. Họ không để ý đến chất lượng và cũng không có ý thức trở thành người viết điêu luyện, viết văn chương.
  • Có người viết thuần văn chương nhưng ít viết dù chất lượng khá tốt.
  • Có người thích thử nghiệm cái mới, chất lượng chưa xác định được.
  • Có người bảo thủ, thích đề cao truyền thống, viết hay cũng có mà ít hay cũng nhiều.
  • Có người muốn rèn ngòi bút cho ngày càng văn chương nhưng vẫn còn chậm.

Sở dĩ phải nhìn vào thực tế bởi lẽ trong sinh hoạt của giới cầm bút Việt Nam luôn luôn tồn tại một vấn đề khá tế nhị: chấp nhận người viết nàọ Theo tâm lý, ban biên tập một tờ báo thuần văn học nghệ thuật không thích đăng những bài mang tính cách chính trị, hoặc những bài viết thiếu chất lượng chủ yếu đăng cho vui, không nghiêm chỉnh. Nhưng vì nể tình, họ cũng đăng. Suy nghĩ khách quan, những bài viết như vậy không thích hợp với thế giới văn chương và dĩ nhiên không thể góp phần nâng cao chất lượng của văn chương. Ngoài lý do ấy, có người viết kém không được chấp nhận. Xét một cách trung hòa, không chấp nhận người viết kém, có lẽ hơi mâu thuẫn. Theo logic tự nhiên, hầu hết cái hay đều bắt đầu bằng sự kém cỏị Phải cần tập luyện, chất lượng theo thời gian mới được nâng caọ Không tạo môi trường phát triển, sẽ không có người viết haỵ Một vấn đề khác, "viết để làm gì" luôn là câu hỏi lớn nhất dễ dẫn đến bất đồng ý kiến. Người sống bằng lý trí thường cho những tác phẩm tình cảm là yếu đuối, tư tưởng không cao, lãng mạn, thậm chí đôi khi "sến", "cải lương". Người sống nhiều tình cảm, ngược hẳn, lại cho những tư tưởng lý trí là máy móc, chỉ làm cho đời sống mệt phờ vì kỹ thuật càng thêm nặng nề, căng thẳng. Khác biệt lý cảm đã là một nguyên nhân gây vấn đề, chưa kể quan điểm vị nghệ thuật hay vị nhân sinh. Song, dẫu khác biệt thế nào đi nữa, câu trả lời chung vẫn là do nhu cầu mà mọi người đều có quyền thỏa mãn. Chung cục, những cái đáng chối từ là chính trị, tuyên truyền, tính phi văn học, tính không ý thức nâng cao chất lượng, đặt biệt là tính tự do quá trớn chỉ gây tổn hại một cách phi lý cho tinh thần và sự tồn tại của con người.


Vài đề nghị cụ thể giúp nâng cao việc viết:

  1. Khuyến khích người viết tham gia sinh hoạt văn học. Hiện nay không thiếu HomePage văn học Việt Nam cần người viết hợp tác.
  2. Mở rộng môi trường gặp gỡ cho người viết trong/ngoài nước và chỉ thuần văn chương. Ðặc biệt đối với người viết trong nước, nên thông tin tối đa để họ có thể theo sát tình hình phát triển ở thế giới bên ngoài, rồi từ đó truyền tải tiếp những thông tin mới nhất đến mọi người hầu tạo nên làn gió mới cho nền văn học quốc nộị Mặt khác, các bài viết giá trị trong nước nên được phổ biến rộng ở hải ngoại để khích lệ người viết và để tạo dịp trao đổi.
  3. Tạo điều kiện viết tự dọ Thay vì giới thiệu "mỗi kỳ mỗi người viết", ban biên tập nên dành nơi sinh hoạt cho tất cả người viết miễn chỉ vì văn chương và chất lượng đừng quá kém. Cách thức này giải quyết được 2 vấn đề. Một, tránh vấn đề tâm lý, người viết nào cũng muốn được "lăng-xê", nhưng ban biên tập chỉ muốn giới thiệu người viết hay vì không muốn tờ báo bị mất uy tín về nội dung. Hai, người viết có cơ hội tham giạ Trong môi trường tự do bao gồm nhiều chất lượng khác nhau, người viết mới có cơ hội tự so sánh phẩm chất mà cải tiến. Sau một thời gian qua thẩm định của độc giả, của ban biên tập, của giới phê bình, những người viết hay sẽ được giới thiệu chung với những tác phẩm đối với họ là hay nhất, ví dụ qua mục "giới thiệu những người viết mới". Cần lưu ý, mô hình viết "tự do" chỉ thực hiện được ở các nơi sinh hoạt văn học trên Internet; không thích hợp cho báo "dưới đất", nhất là các báo có uy tín.
  4. Phỏng vấn người viết hay và mớị Cách thức này tương tự cách thức "giới thiệu người viết", dễ tạo phấn khởi cho người viết và đồng thời qua đó, người đọc dễ hiểu người viết hơn.
  5. Khuyến khích người viết giữ sắc thái riêng. Ðừng làm cho họ mất tự tin do bị phê bình mà không dám viết nữa hoặc không dám viết tự nhiên nữa, rồi ngả theo cái đẹp mà người phê bình cho là tuyệt diệu.
  6. Giúp người viết hiểu rõ mối quan hệ giữa chất liệu, hình thức, nội dung trong sáng tác. Căn bản này thật cần thiết. Chỉ khi hiểu rõ, người viết mới có thể nhận thức được rằng, muốn đóng vai một nhà kiến trúc để sáng dựng nên những công trình giá trị, không phải là một chuyện dễ dàng.
  7. Khuyến khích sáng tạọ Có người viết muốn rời bỏ "cái cũ sáo mòn" và thích đi tìm hoặc tự tác tạo "cái mới". Trong buổi ban đầu, ắt hẳn sự thử nghiệm chưa thể hứa hẹn một kết quả có giá trị vững vàng, họ thường hứng chịu lời phê bình. Thiết tưởng đừng nên làm họ nản lòng, ngược lại, nên động viên, thông tin, góp ý với họ. Biết đâu qua họ, văn học Việt Nam sẽ đạt những bước tiến mới.
  8. Khuyến khích cách tân. Có người viết không có khả năng hoặc không thích theo "cái mới" hoặc phát minh ra "cái mới", nhưng lại có khả năng dùng cái cũ, làm mớị Song trên thực tế, đa số người viết vẫn còn ôm giữ cái cũ. Muốn họ cách tân, phải tạo cho họ cơ hội nhìn, so sánh chất lượng của chính mình với chất lượng cao ở người khác, thế giới khác.
  9. Khuyến khích tinh luyện. Có người viết thích giữ cái truyền thống và chỉ thích tinh luyện sở trường riêng. Thiết nghĩ, tại sao không? Tinh luyện nhằm mục đích gạt bỏ cái yếu và nâng cao phẩm chất.
  10. Lập WorkShop sáng tác, thử nghiệm hoặc giới thiệu những WorkShop đã có sẵn của tác giả.
  11. Ðưa ra chủ đề thảo luận (phê bình trường phái, tác phẩm, đề tài, ...). Với phương pháp này, người viết sẽ tự động tìm hiểu, đào sâu về kiến thức. Thay vì đọc một cách thụ động để hấp thụ thông tin, thảo luận là một phương pháp rất năng động và hiệu quả để đạt mục đích ấỵ Thảo luận là cơ hội gặp gỡ nhiều tư tưởng, qua đó người viết có thể trao đổi, cảm thông nhaụ Tuy vậy, bên cạnh cần có những bài viết của giới chuyên nghiệp đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ. Ðể cuộc thảo luận mang tính thời sự, nên lập một diễn đàn online, hoặc ít nhất đừng để thời gian làm đứt quãng tính thời sự của đề tài.
  12. Khuyến khích dịch thuật. Có người viết không có sở trường sáng tác nhưng rất khá về mặt dịch thuật. Họ có thể đóng vai trò tích cực trong việc giới thiệu những tác phẩm văn chương giá trị của Việt Nam ra thế giới và ngược lạị Nên nhớ, đây làm một điểm rất quan trọng trong giao lưu quốc tế mà trước nay vẫn chưa có nhiều cố gắng. 
  13. Ðộng viên thế hệ viết trẻ.


Thực hiện được các việc trên, chúng ta đạt được những mục đích gì?

  1. Không bị yếu tố thời gian, kinh tế ràng buộc, người viết có thể viết bất cứ lúc nào nếu khả năng cho phép, viết hầu như vô điều kiện ngoài điều kiện duy nhất là có ý thức muốn nâng cao chất lượng viết và chỉ viết vì văn chương. Từ đó, vấn đề chính trị ảnh hưởng văn chương sẽ tự động biến mất, không cần giải quyết.
  2. Nhờ được tạo môi trường tốt, người viết dễ phấn khởị Trong môi trường thân hữu lành mạnh, không khí sinh hoạt sẽ sôi nổi, đa dạng, biên giới sẽ được mở rộng cho nhiều người tham gia, trong lẫn ngoài nước. Người viết có cơ hội trao đổi, học hỏi, so sánh mà cải thiện. Ngoài ra còn được góp ý, khuyến khích, hỗ trợ của văn hữụ Ðược vậy, chắc chắn chất lượng người viết chỉ khá thêm.
  3. Chất lượng văn học Việt Nam được tinh luyện nhờ người viết đào sâu tinh hoa, hoặc dùng chất liệu cũ, làm mới.
  4. Văn hữu với sở trường dịch thuật có cơ hội, giới thiệu các tác phẩm giá trị của người Việt (trong/ngoài nước) ra cộng đồng thế giới và ngược lại.
  5. Văn học Việt Nam có thể xích lại gần quốc tế qua người viết đang tiếp cận văn chương đương đại của thế giớị Biết đâu, sẽ có thêm người tham giạ Ðược vậy, từ một vị thế lạc hậu, văn học Việt Nam có thể đốt giai đoạn, nhẩy thẳng vào môi trường văn chương hiện đại của thế giớị (Ở đây chỉ đề cập đến hình thức, không xét nội dung).
  6. Ðã nắm vững tinh hoa đặc thù với chất lượng được nâng cao, đãụ hấp thụ tinh hoa chung của thế giới, cộng sự tiếp cận hiện tại thế giới, văn học Việt Nam sẽ vững tin hơn mà góp mặt với quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa ngày hôm naỵ Ðó là giải pháp thực tế: phải có vốn liếng, hợp tác chung mới khả thi.
  7. Thế hệ trẻ có điều kiện nối tiếp thế hệ trước, phát triển.

Xét cho cùng, những phương pháp đề ra chỉ nhằm mục đích giúp cải thiện chất lượng nghiệp dư bằng cách nâng cao trình độ đọc và viết. Phần còn lại là tùy vào người viết, đặc biệt, điểm quyết định vẫn là tài năng: sáng tạo, tư duy, đột phá. Phải có ý tưởng lớn, mới có tác phẩm lớn.

Ðể ít thì giờ suy gẫm, hẳn sẽ thấy, trong quá trình phát triển văn học Việt Nam suốt thế kỷ 20, chúng ta chưa bao giờ góp một sáng tạo lý thuyết đáng kể nào cho văn học thế giới ngoài sự thụ động tiếp thu những cái người khác đã làm. Ðã vậy, tiếp thu quá chậm và ôm giữ quá lâụ Kể cả khi tiếp cận cái mới nhất cũng thế, tính sáng tạo của người cầm bút Việt Nam mới chỉ ngừng ở mức độ như một tia sáng loé lên ở địa phận tác phẩm chứ chưa phải là một ngọn đuốc cách mạng sáng rực ở cộng đồng văn chương thế giớị Thử nghiệm lý thuyết có saûn, chúng ta có khả năng, song đột phá, cho chào đời một cái mới, chúng ta không có. Thành thử phải can đảm dứt bỏ quán tính chạy sau lưng kẻ khác. Ðột phá tất nhiên không dễ. Thế nhưng bứt vượt khỏi cái mốc vừa đạt, không đến nỗi khó. Ðó đã là một bước tiến vượt bực. Khi đã tiếp cận và đã hiểu một "cái mới", chỉ cần đặt câu hỏi: "cái này hay, nhưng hay nữa là ... thế này, được không ?". Ðây là bí quyết, giới làm khoa học thường dùng để cải tiến một cơ sở, tiền đề phát minh của người đi trước thành "cái mới" của mình. Sau đó, khi "cái mới" của anh/chị ta hình thành, chính anh/chị ta lại tiếp tục đặt câu hỏi đó, tìm cách đục dũa mà thoát khỏi cái mốc đó. Tiến trình ấy mãi được lặp lại, một bước, hai bước, ba bước, ... cho đến khi anh/chị ta hết sức, thì kết quả cuối cùng đã cách xa cái trước ít nhất là một bước, nghĩa là có thay đổi, có cải biến. Có khi sự cải biến còn dẫn đến một "cái mới" không ngờ. Ðây chính là kết quả nhờ bứt vượt mang tính đột phá, đột phá không bừa bãi mà luôn nắm cơ sở và tuân thủ quy luật "liên tục" suốt quá trình sáng tạo.


Giải pháp nâng cao trình độ đọc của độc giả

Việc nâng cao chất lượng người viết đã được bàn. Nay thử đặt câu hỏi, làm thế nào nâng cao chất lượng đọc của độc giả?

Chúng ta đều biết, "viết" và "đọc" là hai hoạt động tư duy mang hình thức tương phản. Một mặt, viết là hình thức biểu lộ tư tưởng, mặt khác, đọc là hình thức đón nhận tư tưởng. Dù khác song cả hai đều phát sinh từ nhu cầụ Nhu cầu, mỗi con người đều có. Thế nhưng không phải mọi nhu cầu đều giống nhau và mang mức độ giống nhaụ Có nhu cầu đơn giản, có nhu cầu không đơn giản. Có nhu cầu thấp, nhu cầu không thấp. Có nhu cầu nhỏ, nhu cầu không nhỏ, ... Ðối với việc viết/đọc cũng vậy, nhu cầu chính là yếu tố quyết định chất liệu, hình thức, nội dung và trình độ chất lượng của sản phẩm tư duỵ Về nội dung, có nhu cầu thiên về cảm, có nhu cầu thiên về lý. Một người lãng mạn thường thích thơ tình, truyện tình cảm, chẳng hạn. Người thiên lý trí lại thích triết học hoặc những tác phẩm đòi hỏi tư duỵ Người có nhu cầu cảm thiên nhiên, chẳng hạn thích truyện đồng quệ Người giầu trí tưởng tượng lại thích những gì không hiện thực. .... Về hình thức, có nhu cầu thiên truyền thống, có nhu cầu tìm cái mớị Người thiên truyền thống, ví dụ thích thơ lục bát nhưng có người lại cho hình thức ấy đã cũ, họ thích thơ mới, kỹ thuật mới, v.v.. Nhưng một tác phẩm dù mang nội dung hoặc hình thức gì đi chăng nữa, chất lượng vẫn là yếu tố độc lập quyết định giá trị của sáng tác. Tạo chất lượng cao trong sáng tác là cả một nghệ thuật. Không phải thể thơ lục bát bao giờ cũng dở. Không phải thể thơ mới bao giờ cũng haỵ Không phải truyện đồng quê bao giờ cũng "quê mùa". Không phải triết lý bao giờ cũng cao siêu, ...

Hướng nhu cầu khác biệt đều đi từ tâm lý con người mà ra cả. Dù khác biệt nhưng nhu cầu luôn tăng trưởng liên tục (steady), hoặc theo chiều rộng, hoặc theo chiều sâu, hoặc cả haị Nhu cầu tăng trưởng liên tục kéo theo sự thèm muốn chất lượng phải được nâng cao liên tục, thậm chí đến một lúc nào đó vì nhàm chán, nhu cầu lại đổi hướng. Ví dụ từ "ăn no, mặc ấm", nhu cầu tăng trưởng đến "ăn ngon, mặc đẹp", rồi "ăn sang, mặc lạ". Ðiểm tâm lý này đã gợi ra bí quyết: "muốn nâng cao trình độ đọc của độc giả, phải tạo nhu cầu thèm muốn chất lượng cao và tính liên tục của nó".

Thế thì những phương pháp đã nêu đối với việc nâng cao chất lượng người viết tự động cũng giúp nâng cao cả trình độ đọc của độc giả. Bởi, chẳng hạn khi độc giả hài lòng với một tác phẩm của một tác giả nào đó, họ đều muốn tác phẩm sau sẽ hay hơn tác phẩm trước. Những phương pháp kể trên còn tạo cho độc giả được dịp so sánh các tác phẩm. So sánh là tác động tạo sự kích thích việc đọc và chọn lựa tính thẩm mỹ cao.


Hợp lực, tổ chức, thực hiện

Ðã có bài bản, song còn một vấn đề kỹ thuật nữa là nơi sinh hoạt (đọc, viết, trao đổi, thông tin, ...). Tốt nhất, hãy chọn phương tiện Internet, ví dụ một trang văn học nghệ thuật đã tồn tại có uy tín, hoặc làm ra trang mớị Muốn thực hiện, cần phải có sự hợp tác chuyên nghiệp và tự nguyện. Ví dụ, làm sao thỏa điều quan trọng nhất: việc đăng tải phải lâu dài? Ở đâu? Ai phụ trách phần kỹ thuật lập trình? Ai lo biên tập, sửa lỗi chính tả, lên bài, quản trị thư viện thông tin, ...? Ai nắm công việc điều hành, liên lạc, ...? Ai giữ vai trò xúc tác người viết, điều hợp thảo luận, thông tin và cập nhật thông tin quốc tế, ...? Ai quan sát kết quả phát triển, lập bài bản, chiến lược phát triển cho đừng lạc hướng, mất lập trường ...? Tất cả đòi hỏi mọi cố gắng phải nghiêm túc và mang tính chuyên nghiệp là vì vậỵ Ðó là chưa kể đến điểm quyết định rất quan trọng là thái độ "triệt để": Triệt để giải quyết vấn đề. Chưa đạt yêu cầu, phải làm nữa, làm nữạ Tránh hiện tượng phong tràọ Phát triển phải liên tục, lâu dàị Luôn cải tiến. Tạo không khí luôn sinh động.

Chỉ cần "xóa bỏ tính nghiệp dư", chúng ta đã thấy, hai vấn đề gốc "chính trị" và "kinh tế" bỗng dưng mất hẳn tầm quan trọng. Chính trị không được quan tâm, tự động sẽ bị đào thảị Kinh tế không còn là căn nguyên quyết định sự phát triển văn học. Ðổi lại, hợp lực lại đóng vai trò ấỵ Tất cả bài bản đã đưa đều được xây dựng trên nền móng hợp lực. Nó chính là chìa khóa dẫn đến thành công. Tuy vậy, muốn sự hợp lực càng được bảo đảm hơn, chúng ta chỉ cần cải thiện thêm vài điểm yếu trong giao lưu nữa là xong !


Giải quyết vài vấn đề trong giao lưu

Trong hợp tác chung, một điểm yếu thường xảy ra là vấn đề giao lưu ((interpersonal) communication). Nguyên nhân của vấn đề này là do bất đồng hoàn cảnh, nhân sinh quan, ý kiến, lập trường, trình độ văn hóa/dân trí, ngôn ngữ, thói quen, hoặc trục trặc trong cách thông tin, cách làm việc, tổ chức, thực hiện, ... Rất phức tạp và càng phức tạp hơn nữa trong môi trường mang tính dân chủ, đa văn hóạ Ðể tránh hoặc khắc phục những khó khăn ấy, người Tây phương thường sử dụng những phương pháp hành xử được gọi chung là kỹ thuật giao lưu ((interpersonal) communication technique). Tổng quát, mục đích của nó là để mọi người tham gia hiểu nhau, làm việc chung cho có hiệu quả hầu đạt được kết quả tốt.

Trong giao lưu, yếu tố thảo luận đóng vai trò khá quan trọng. Ở đó, phong cách thảo luận có thể quyết định sự thành công hay thất bại dễ dàng như trở bàn taỵ Quan trọng không kém là yếu tố thông tin. Hai vấn đề này hầu như luôn xuất hiện trong mọi sinh hoạt tư tưởng. Cả các sinh hoạt văn học Việt Nam cũng khó tránh khỏi, thậm chí đôi khi cần suy gẫm lạị Thực vậy, thảo luận trên văn đàn Việt Nam thường biến thành tranh cãi nặng nề, hằn học, kéo dài, có khi gặp bế tắc. Mục đích của thảo luận là làm sáng tỏ thông tin, vấn đề hoặc tìm được lời giải thống nhất cho vấn đề qua trao đổi ý kiến của người tham dự. Ở đó, hai bên cần hiểu nhau, đón nhận ý kiến của nhau, hài hòa hỗ trợ cho nhau càng nhiều càng tốt. Không thành công, thảo luận trở thành vô nghĩa.

Một trong những thất bại phát sinh từ phong cách thảo luận là không để ý đến yếu tố văn hóạ Không ít người Việt ở hải ngoại bị ảnh hưởng bởi văn hóa bản xứ thường mắc phảị Nên nhớ, mỗi xứ, mỗi dân tộc có tính tình khác nhau, văn hóa khác nhau, vì vậy phong cách thảo luận có thể khác nhaụ Ví dụ thảo luận cường điệu với dân Âu Châu chắc chắc sẽ bị chối từ. Song không phải mọi dân tộc Âu Châu đều cùng bản tính. Dân Pháp dễ chịu, dân Ý khôi hài, dân Ðức nghiêm nghị, ... Ngay cả dân Á Châu như Nhật, Ðại Hàn, Trung Hoa, Việt Nam ... cũng vậy, vẫn có sự dị biệt, và càng dị biệt đối với dân Âu Châụ Thành thử không thể áp dụng quy luật văn hóa chung cho thảo luận ngoài cách hài hòa, tôn trọng văn hóa, giữ tính lịch lãm của con người (human elegance). Ðiều này càng có ý nghĩa trong sinh hoạt mang tính toàn cầu hóa hôm naỵ Ở Âu Châu này chẳng hạn, với tinh thần hài hòa, kỹ thuật thảo luận (discussion technique) mới đã được ứng dụng thực tiễn từ nhiều năm qua trong mọi lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, xã hội, .... Bất kỳ người Việt nào ở Âu Châu đã từng theo dõi, hoặc có cơ hội tham gia thảo luận (nơi văn phòng, kỹ nghệ, đại học, hội nghị quốc tế (conference, symposium, ...), diễn đàn công cộng, ...), đều thấy vậỵ Bất chấp sự giao lưu phức tạp do khác biệt về văn hóa, kiến thức, tư tưởng, lập trường, ... của nhiều tầng giới tham gia, bất chấp vấn đề phức tạp đến đâu, sau cuộc thảo luận, họ vẫn đạt được kết quả tốt. Thế thì cách thảo luận của họ như thế nào? Một vài nhận xét:

  1. Văn hóa được tôn trọng tối đa, nhất là trong môi trường đa văn hóa.
  2. Tự do phát biểụ Không thành kiến, không thiên vị, không chia phe phái đàn áp nhaụ Dù tranh luận sôi nổi, vẫn giữ lịch lãm, trình độ văn hóa, tự chủ, bình tĩnh, ôn hòa, không gây tự ái, tránh tự ái, không trịch thượng, không đóng vai kẻ cả, tôn trọng, lắng nghe nhau, đón nhận ý kiến xây dựng (feedback). 
  3. Nhìn vấn đề bằng tinh thần tích cực (positive). Con người không ai không có khuyết điểm cần được cải thiện. Khi người phát biểu vướng khuyết điểm, người nghe nên khéo léo giúp họ thoát ra khỏi vấn đề một cách tế nhị. Phương pháp thảo luận cũ mang tính sát phạt, duy phương tiện lý trí, không phối triển được cảm lý, quá cứng ngắc đã lỗi thờị Thái độ háo lý, răm ráp, máy móc, một cái bệnh, người trí thức thường vướng phải và bị diễu cợt là "dốt tại nghiệp" (ger.: Fachidiot, eng.: one-track specialist, person who can think of nothing but his/her subject), hoặc thái độ rào đón điểm yếu của đối tượng để công kích cho thỏa thích chỉ dẫn đến xung đột và bế tắc. Thay vì vậy nên chứng minh điểm yếu (nếu có) bằng suy nghĩ đúng đắn, logic và bằng thái độ góp ý xây dựng hẳng thắn, bình đẳng, lịch sự.
  4. Chia nhỏ vấn đề và tập trung thảo luận vào mỗi điểm thay vì để ý tưởng bị phân tán bởi khối vấn đề lớn.
  5. Luôn luôn đặt mục đích, sau thảo luận, thông tin sẽ được làm sáng tỏ, vấn đề sẽ có lời giải.
  6. Chuẩn bị kiến thức trước khi thảo luận. Nhất là đóng vai chủ động, người phát biểu nên chuẩn bị và giới thiệu trước những kiến thức cần thiết cho người nghe (nếu cần). Ðược vậy, người nghe sẽ dễ hiểu người phát biểu hơn, dễ tiếp thu hơn, hiệu quả hơn. Lợi cả đôi bên.
  7. Không thông tin saị Không để người nhận thông tin hiểu lầm. Người phát biểu phải giải thích rõ ý nghĩa mình đưa ra (khái niệm, thuật ngữ, mệnh đề, ... ). Ngược lại, người nghe phải hiểu kỹ ý người phát biểụ Nếu chưa, còn nghi ngờ, nên tế nhị hỏi lại, tránh phán đoán vội vàng, người phát biểu sai.
  8. Chỉ thông tin đủ và cần thiết, những gì liên quan đến vấn đề. Không phóng đại, phức tạp hóa thông tin. Không để người được thông tin có cảm tuởng, thông tin nhằm phô trương kiến thức.
  9. Nếu cần lý luận, tuyệt đối lý luận vững chắc đối với chân lý. IÙt nhất là nắm những quy luật của logic phát biểụ Tốt nữa: Predicate Logic, Dialogue Logic. Nên để ý giá trị đúng/sai (true/false) có hai loạị Ðúng tuyệt đối là đúng vượt thời gian, không gian như chân lý trong khoa học thực nghiệm. Ðúng tương đối không thỏa điểm ấỵ Ở phạm trù văn học, giá trị đúng/sai của lý luận thường tương đối bởi chúng thay đổi liên tục theo thời gian, hơn nữa còn tùy quan niệm chủ quan.
  10. Người tham gia thảo luận phải tôn trọng mọi khởi điểm trong suốt đề tài thảo luận. Người đặt câu hỏi chỉ được phép nhắm vào tiêu điểm của nội dung chứa điều kiện nhất định của người vừa phát biểu, không được phép đánh lạc hướng hoặc đặt những câu hỏi gây "hỏa mù". Ngược lại, người được hỏi chỉ trả lời những gì được hỏi ngay tiêu điểm ấy, ngoài ra được phép từ chốị Người phát biểu phải chịu trách nhiệm về phát biểu của mình và có bổn phận trả lời, làm sáng tỏ phát biểu khi được yêu cầu.
  11. Tránh phức tạp hóa vấn đề. Vấn đề vốn dĩ đã phức tạp.
  12. Ðưa ra vấn đề chưa đủ, cần phải có đề nghị, giải pháp cụ thể.
  13. Luôn theo sát hướng vấn đề, tránh lạc đề, tránh không khí bị mất kiểm soát. Bình thường sẽ có một người điều hợp (moderator) lãnh công tác ấỵ Song ngày nay, nhiều khi không cần nữa, mỗi người tham gia thảo luận tự đảm nhận luôn.
  14. Cuối cùng, tổng kết cuộc thảo luận bằng văn bản. Văn bản sẽ là cây thước đo lường tính hiệu quả và kết quả của thảo luận.

Thực tế đã chứng minh, phong cách và phương cách thảo luận kể trên luôn luôn dẫn đến kết quả tốt đẹp. Nhờ hài hòa, tính thân hữu được tăng cường. Không lạc đề. Nhanh gọn. Mọi người đều hiểu ý tưởng nhau rõ ràng. Dù sôi nổi nhưng không xảy ra tình trạng tranh cãi dai dẳng, nặng nề. Thông tin được làm sáng tỏ, vấn đề có lời giải thống nhất. Kiến thức được nâng cao qua trao đổị Ðịnh giá được hiệu quả của thảo luận. Rút được kinh nghiệm. Ðạt uy tín. Tất cả đều vui lòng.


Tổng kết

Người làm văn học Việt Nam chúng ta không được may mắn. Chiến tranh, nghèo đói, lạc hậu, điều kiện hạn chế đã không cho phép nền văn học Việt Nam phát triển thoải mái như ở một xứ thanh bình, phồn thịnh. Ở đó, văn học nghệ thuật được nâng niu, chiều chuộng, được kể như hạ tầng cơ sở quốc giạ Ở đó, đại học văn chương không thiếu, chương trình phát triển không thiếu, nhân lực không thiếu, phương tiện không thiếu, ... bởi có tiền. Nói cách khác, ở xứ giàu mạnh, chính phủ có trách nhiệm tạo điều kiện tối đa cho văn học nghệ thuật phát triển; ở xứ nghèo, người làm văn học nghệ thuật phải tự lọ Có thành công hay không đều do chính mình quyết định nếu hoàn cảnh thuận lợị Ðối với người Việt chúng ta cũng thế, muốn tiến chỉ còn cách là phải khai thác tối đa những mặt mạnh saûn có mà tự giải quyết vấn đề.

Như đã trình bày, bởi không thể dứt điểm vấn đề gốc một cách trực tiếp để đưa nền văn học Việt Nam đương đại tiến lên, chúng ta đành chọn phương pháp gián tiếp. Song, dù gián tiếp, mạng lưới vấn đề vẫn bị phá vỡ như thường. Cụ thể, giải quyết vấn đề nghiệp dư nhờ cách nâng cao trình độ đọc và viết. Khi trình độ đọc/viết được nâng cao, tự nhiên nó sẽ kéo theo trình độ thẩm mỹ, tư duy, dân trí lên caọ Tất cả đều xúc tác, tạo nên nhu cầu tinh luyện tinh hoa riêng và nhu cầu đón nhận tinh hoa chung của thế giớị Một khi đã có vốn liếng của mình cộng sự saûn sàng đón nhận cái hay của người, thì cuộc giao lưu với thế giới mới thực tế, mới bình đẳng. Bên cạnh sự chuẩn bị ấy, trước mắt, chúng ta đã tạo được môi trường sinh hoạt văn chương rộng lớn, nhộn nhịp cho riêng mình, trong lẫn ngoài nước. Nhờ vậy, sẽ có sự trao đổi giữa hai bên, nhất là người trong nước sẽ có cơ hội tiếp cận những cái hay của thế giới bên ngoài, một yếu tố rất ích lợi để giúp nền văn học đương đại trong nước khá lên. Tạo được môi trường sinh hoạt thuần túy văn chương, vấn đề chính trị lấn áp văn chương luôn tồn tại tự động sẽ bị đào thảị Giải quyết xong những khó khăn trên, không những chỉ nâng cao chất lượng văn học Việt Nam đương đại mà còn chuẩn bị cả một cơ sở văn học mở (open) có chất lượng cho thế hệ về sau nối tiếp.

Vậy, xét cho cùng, những tiền đề kể trên có khả thi không? Theo tôi, khả thi bởi, một, có rất nhiều người hoạt động nghiệp dư luôn nhiệt tình đóng góp. Dù bương chải, họ vẫn để dành thời gian cho hoạt động văn nghệ. Hai, bên cạnh còn có giới chuyên nghiệp văn chương trong đại học saûn sàng trợ giúp đắc lực cho việc phát triển chung. Ba, có thể nói, trong giới hoạt động nghiệp dư về văn chương hầu như tuyệt đối đều là dân trí thức, có đầu óc cấp tiến, có kinh nghiệm làm việc, có tinh thần trách nhiệm, hơn nữa có một thứ vốn quý: chất xám. Chất xám là sức mạnh để chiến thắng vấn đề, là cơ sở sáng tạo và là khả năng hoàn hảo chất lượng. Bốn, ở hải ngoại, tự do sáng tạo, phát triển không thành vấn đề. Năm, cả trong nước, nhìn nhận khách quan, không khí sinh hoạt văn học đã thoải mái hơn xưa rất nhiềụ Ðiều kiện này cho phép người viết dễ sáng tác, dễ giao lưu với người Việt ở hải ngoại hơn. Sáu, phương tiện Internet nhanh chóng, dễ dàng, ít tốn kém saûn có, thông tin, tài liệu rất dồi dào cũng có.

Ưu điểm, bài bản thực tế, khả thi, chúng ta có; hợp lưu nhiệt tình, thân hữu có; ý chí, tinh thần hành động triệt để có, thì không có lý do gì mà chúng ta không thể thành công trong việc đưa nền văn học Việt Nam đương đại tiến lên đúng ý nghĩa văn chương đích thực như hằng mong muốn.

Dũng Vũ

Stuttgart, den 03.09.2000

Tien-Dung.Vu@stg.siemens.de

 

Chú thích:

[1] Dũng Vũ: Thử bàn về chất lượng phát triển văn học Việt Nam đương đạị Hợp Lưu #54, tháng 8 & 9, 2000.

[2] Minh Tân, Thanh Nghị, Xuân Lãm: Từ điển Tiếng Việt- Ngôn Ngữ học Việt Nam, nxb. Thanh Hóa, 1998.

Tài liệu tham khảo: (Thảo luận, giao lưu)

1. Steiner, Rudorf: Lehrbuch der Diskussionstechnik. Huber, Frauenfeld, 2000.

2. Rothstein, Butler: On Conflict and Consensus. A handbook on Formal Consensus decisionmaking.

http://www.homepages.de/home/smerten/KritischeUni/ akku/texte/ocac.html, (Stand: 23.08.99).

3. Kahn, Michael: Das Tao der Kommunikation. Huber, Wien, 1999.

4. Có thể xem thêm:

5. Kienpointer, Manfred: Vernuenftig argrumentieren - Regeln und Techniken der Diskussion. Rowohlt, Hamburg, 1996.

6. Hage, J.: Reasoning with Rules. An Essay on Legal Reasoning and Its Underlying Logic. Kluwer Academic Publishers, Dordrecht, 1997.

7. van Eemeren, Grootendost: Argrumentation, Communication and Fallacies. Hillsdale, N.J, 1992.

8. Fisher, Bonnie/Margolis, Michael/Resnick, David: A New Way of Talking Politics: Democracy on the Internet. Center for the Study of Democratic Citizenship. University of Cincinnatti, 1994.

9. Mettler- Meibom, B.: Kommunikation in der Mediengesellschaft .Tendenzen - Gerfaehrdungen - Orientierungen. Sigma, Berlin, 1994.