Quả chuông thứ hai có niên đại sớm ở Việt Nam

Phó T.S. Tống Trung Tín
 

Chuông đồng vốn là một loại di vật quý có giá trị lịch sử, văn hóa. Do giá trị nhiều mặt, những quả chuông có niên đại sớm còn lại rất ít. ở Việt Nam quả chuông có niên đại sớm nhất là chuông Thanh Mai có niên đại thế kỷ 8 được tìm thấy dưới lòng đất Thanh Mai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.

Và bây giờ, quả chuông có niên đại sớm thứ hai được các nhà nghiên cứu tìm thấy ở văn chỉ thôn Nhật Tảo, xã Ðông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

Minh văn trên chuông ghi rõ niên đại và nơi đúc là: Giao Chỉ huyện, Hạ Từ Liêm thôn, thời Càn Hòa lục niên Mậu Thân tuế, tứ nguyệt, nhị thập cửu nhật (thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ, ngày 29-4 năm Mậu Thân, niên hiệu Càn Hòa thứ sáu). Niên biểu các triều đại Việt Nam không có niên hiệu Càn Hòa. Niên hiệu Càn Hòa là thuộc về thời vua nước Nam Hán Lưu Thạnh, đóng đô ở Quảng Châu trong thời Ngũ đại thập quốc ở Trung Quốc. Càn Hòa thứ sáu là năm 948. Chính nước này, 10 năm trước đó (938) đã phái quân sang Việt Nam và bị đại bại trên sông Bạch Ðằng.

Nhưng vì sao niên hiệu Nam Hán lại vẫn được ghi trên quả chuông Việt Nam vào lúc Việt Nam đã độc lập? Lật lại các trang sử cũ Việt Nam thì thấy tuy Ngô Quyền đã xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (Ðông Anh, Hà Nội) nhưng vẫn chưa đặt niên hiệu. Sau khi Ngô Quyền mất năm 944, cho đến khi triều Ngô chấm dứt năm 965, các đời Dương Tam Kha, Ngô Tấn Nam Vương, Ngô Thiên Sách Vương cũng đều không có niên hiệu. Chính vì vậy, minh văn trên chuông vẫn sử dụng niên hiệu nước ngoài. Ðó cũng chính là sự thật lịch sử Việt Nam thời đó đang ở buổi đầu giành và củng cố nền độc lập.

Ðến thời Ðinh, khi đất nước vững mạnh hơn, Việt Nam bắt đầu có niên hiệu riêng Thái Bình vào năm 970. Như vậy tiếp theo chuông Thanh Mai, quả chuông thời Ngô Quyền ở Hà Nội là quả chuông có niên đại sớm thứ hai, cung cấp nhiều tư liệu quý giá về lịch sử và văn hóa thời Ngô Quyền.
 

Quả chuông và giá trị nghệ thuật

Quả chuông được bảo tồn khá nguyên vẹn trong suốt 1.049 năm qua. Dáng chuông thon thả, nhỏ nhắn (cao 31cm, đường kính miệng 18,7cm, cân nặng 5,4kg). Ðỉnh chuông phẳng, miệng chuông loe vát. Toàn bộ thân chuông có tạo nhiều đường chỉ đúc nổi và nám tròn nổi. Giữa thân chuông có năm đường chỉ ngang chia thân chuông làm hai phần. Dọc thân chuông, mỗi bên có năm đường chỉ khác chia tiếp thân chuông thành tám ô (bốn ô dưới để trơn, bốn ô trên khắc đầy chữ Hán). Giao điểm giữa các đường chỉ nổi có bốn núm tròn để làm nơi gõ chuông. Chung quanh núm tròn có trang trí 12 cánh hoa tròn nổi. Quai chuông tạo hình động vật uốn cong. Có thể nói dáng và cấu trúc quả chuông thời Ngô rất hoàn hảo, cân xứng. Kể từ đó cho đến tận thời Nguyễn, các quả chuông đồng Việt Nam đều tiếp nối truyền thống này và chỉ có biến đổi về mặt trang trí mà thôi.

Trang trí hình động vật trên quai chuông thời Ngô Quyền cũng rất đáng lưu tâm. Con vật này rất khó nhận dạng. Nó có hai đầu quay về hai phía, phần thân nối liền nhau thành một khối. Ðầu con vật to khỏe, hai mắt lớn hình thoi, hai sừng cong có các khía ngang, bờm đơn giản, thân mập có phủ vảy, chân thon cao. Do tính cách điệu cao và việc đáp ứng chức năng quai chuông, mỗi người gọi theo một cách riêng. Về mặt bố cục, hình tượng này gần gũi với bố cục trang trí quai chuông Thanh Mai và trang trí trán bia thời Tùy ở Thanh Hóa. Con vật trên các di vật đó thuộc dạng rắn hai đầu. Con vật trên chuông thời Ngô Quyền đã khác nhiều và có lẽ là một dạng rồng tiền thân của rồng thời Lý, Trần, Lê. Dù sao, đây cũng là hình ảnh nghệ thuật duy nhất thời Ngô Quyền cho phép chúng ta hiểu thêm phần nào tư duy nghệ thuật đương thời với đặc trưng đơn giản mà khỏe mạnh.
 

Minh văn trên chuông và giá trị nghiên cứu lịch sử, tôn giáo

Nội dung minh văn trên chuông ngắn gọn, đơn giản, ghi lại việc các tín đồ Ðạo giáo ở địa phương góp tiền vẽ tranh Thái Thượng tam tôn, làm sáu chiếc phướn báu, mua quả chuông báu, các nghi lễ (trai khánh) và chức danh (cao công) của Ðạo giáo để mong báo đáp tứ ân và hy vọng được trường cửu.

Như vậy, minh văn và sự hiện diện của quả chuông đã cho thấy sự phát triển của Ðạo Giáo ở thời Ngô Quyền khá mạnh. Ðiều đó giải thích vì sao trong các thời kỳ Ðinh - Lê - Lý - Trần, tuy đạo Phật là quốc giáo, nhưng vai trò của Ðạo giáo vẫn có ảnh hưởng khá mạnh trong đời sống tinh thần của người dân Ðại Việt với nhiều cung, quán khá lộng lẫy ở kinh đô Thăng Long.

Về giá trị lịch sử, ngoài cách ghi niên hiệu đã nói ở trên, ta còn có thể hiểu thêm về địa lý học lịch sử và đơn vị hành chính thời Ngô Quyền.

Chẳng hạn địa danh huyện Giao Chỉ ghi trên chuông vốn có từ thời Ðường. Qua minh văn, ta thấy đến thời Ngô vẫn giữ tên huyện Giao chỉ.

Mặc khác, ta cũng thấy phạm vi huyện này bao gồm cả vùng đất huyện Từ Liêm ngày nay. Minh văn cũng nhắc tên thôn Hạ Từ Liêm. Ðiều đó chứng tỏ thời Ngô Quyền, Việt Nam đã chắc chắn có đơn vị thôn. Các tư liệu ghi trên chuông là rất chắc chắn, bởi lẽ minh văn trên chuông này là sử liệu chữ viết sớm nhất của thời kỳ độc lập tự chủ kể từ thế kỷ 10.

Hiện chuông được địa phương lưu giữ rất cẩn thận. Tuy nhiên, vị trí xứng đáng của nó phải là ở các bảo tàng quốc gia của trung ương hoặc Hà Nội mới phát huy được giá trị và tránh khỏi bị mất mát, vì cho đến nay có thể nói quả chuông này là một chứng tích lịch sử duy nhất thuộc thời Ngô Quyền.

Phó T.S. Tống Trung Tín