|
Mấy nét về cội nguồn -
Văn minh văn hóa Việt Nam
Giáo sư Cao Thế Dung

Nửa đầu thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên, nghĩa là nhà Tần chưa nổi dậy,
trước cuộc chinh phạt phương Nam của Tần Thủy Hoàng, miền Bách Việt phương nam
chưa tiếp xúc với người trung nguyên Hoa Hạ, Trung Quốc, "vào thời kỳ này trong
sự nhận thức của các sĩ phu phương Bắc, họ mới chỉ biết đến nước Việt của Câu
Tiễn. Sau này trong quá trình tiếp xúc, bằng nhiều con đường khác nhau, họ dần
dần biết thêm các nước khác nhau ở khu vực này mà trước tiên là Ðông Âu (lấy tên
con sông Âu mà dân nước này cư trú ven bờ), là một nước khá hùng mạnh cho nên
người Trung Nguyên bấy giờ thường dùng từ Âu để chỉ các nhóm người Việt sống ở
Lĩnh Nam..." (Ðặng Kim Ngọc, "Vấn đề Việt Nam trong lịch sử cổ đại và trong sử
sách Trung Quốc và Việt Nam", Nghiên cứu lịch sử số 6 (231), 1986 tr. 51).
Căn cứ từ các nguồn tài liệu giá trị trong cổ thư Trung Quốc, tác giả Ðặng
Kim Ngọc trong bài khảo luận kể trên, khảo cứu từ các bộ "Thượng Thư", "Chu Lễ"
và "Quốc Ngữ" về các chư hầu của nhà Chu. Vào thời kỳ này, Âu Việt hay Âu Thục
vẫn còn tồn tại ở miền Trung (tỉnh Tứ Xuyên ngày nay), một vùng núi non chập
chùng phía thượng lưu Mâu Giang (thời Tam Quốc là Ích Châu).
Theo cách phân chia chư hầu, thì Âu Việt chưa phải là chư hầu của nhà Chu
(1122 - 221 trước công nguyên). Các dân tộc chung quanh lãnh thổ Hán tộc, người
Hán gọi là Bắc Ðịch, Tây Nhung, Ðông Di và Nam Man. Bộ tộc Âu Việt cùng một hạng
với Tây Nhung. Các vua Hán tự xưng là thiên tử (con trời), đặc ra hệ thống ngũ
phục. Phục là phục vụ thiên tử. Sách Chu Lễ mục Quan Chức thì viết rõ: "Phục:
Phục sực thiên tử dã", nghĩa là Phục tức là làm việc cho thiên tử vậy.
Nhà Chu lấy kinh đô (kinh sư) làm trục trung tâm tức lấy nơi thiên tử ở làm
chuẩn (lấy Hàm Dương, kinh đô Tần Thủy Hoàng hay Trường An đời Hán đều ở tỉnh
Thiểm Tây ngày nay). Nước chư hầu ở cách kinh đô 500 dặm gọi là "điện phục",
nước ở cách kinh đô 100 dặm gọi là "hầu phục", "yêu phục" hay "hoang phục" ở
cách xa kinh đô từ 1500 đến 2000 dặm.
Theo sách Hoa Dương Quốc Chí đời Tấn (q.1 và q.13), nước Thục tức Âu Việt ở
phía đông, liền với nước Ba, phía bắc thành Ðô (ích châu), phía nam là nước Việt
(Tây Thi gái nước Việt và Việt Vương Câu Tiễn).
Như vậy nước Thục thuộc về hoang phục. Nước Văn Lang của tộc Lạc Việt ở phía
Nam dãy Ngũ Lĩnh, không thuộc ngũ phục, nghĩa là không nằm trong khu vực chư hầu
Trung Quốc dù là hoang phục. Lãnh thổ Lạc Việt - Bách Việt ở phía Nam Ngũ lĩnh.
Theo ngọc phả đền Vua Hùng do Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Cố soạn năm Hồng Ðức thứ 2
(1471): "Hùng Vương bách noãn tiên cung thủy bộ linh thần" và bản "Hùng đô thập
bát điệp thánh vương" soạn năm 1472, ghi rõ 15 bộ sách của nước ta thời Văn Lang
trong đó có bộ Ai Lao Di (không phải nước Ai Lao ngày nay), bộ Quảng Ðông và bộ
Quảng Tây. Phục cũng có nghĩa là triều cống. Văn Lang ở ngoài ngũ phục tức không
triều cống thiên tử Hán tộc. Cho nên sách Thiên Nam Ngữ Lục, bộ thi sử cây 137 -
138 viết:
"Ắt còn dòng dõi thiên hương
Ðã ngoài ngũ phục khả phương trạch người"
(ý nói, Lạc Long Quân tuy ở ngoài cõi ngũ phục,
vẫn là dòng dõi thiên hương,
vẫn chọn được nàng Tiên Âu Cơ,
con vua Ðế Lai làm vợ).
Người Quảng Ðông cho đến nay vẫn tự nhận mình là Việt nhân (chữ Việt nhân
Quảng Ðông thuộc bộ mễ, Việt trong Việt Nam thuộc bộ tẩu). Trước đời Tần Thủy
Hoàng (221 - 209 trước công nguyên), Lưỡng Quảng hay Lĩnh Nam thuộc cương vực
Văn Lang "kể từ thời Tần Thủy Hoàng để chinh phục Bách Việt phương nam, dân Hoa
ở trung bộ di cư xuống Quảng Ðông từ Tây An, dọc theo Hán tử xuống Hán tử xuống
Tây Giang đến Quảng Ðông. Ðến đời Ðông Hán trào lưu di cư xuống Quảng Ðông mới
mạnh. Ngay trước thời nhà Hán (206 trước công nguyên - 220 sau công nguyên),
miền Quảng Tây còn ở ngoài phạm vi ảnh hưởng Trung Hoa và theo đấy thì ít có ảnh
hưởng Hán học" La Hương lâm (giáo thụ), "Sự bành trướng văn hóa Trung Hoa về
phương Nam và sự phát triển học thức ở Quảng Ðông", (Khảo cổ Tập san số VIII, Sài
Gòn 1974 tr. 115 - 142, bản dịch của Giáo sư Nguyễn Ðăng Thục).
Cương vực Bách Việt - Lạc Việt: Từ Hoa Nam đến Ninh Thuận
Dân Lưỡng Quảng tuy Hán hóa nhưng vẫn có riêng văn học và truyền thống Lưỡng
Quảng. Người Quảng Ðông cho đến nay vẫn dùng tiếng Quảng Ðông, Bạch Thoại (hay
Quan Thoại) là ngôn ngữ thứ hai mặc dầu là ngôn ngữ chính thức của Trung Quốc.
Nhiều học giả Tây Phương như Aucohrt lại ngộ nhận "Người Việt Nam gốc ở Trung
Hoa. Năm 334 trước công nguyên bị dồn xuống phương Nam". Ðiều này đúng một phần,
như tộc Thục Âu Lạc bị dồn xuống phưong Nam từ thượng lưu sông Mân Giang. Nhưng
Lạc Việt là dân bản địa, cương vực trải dài từ phía Nam hồ Ðộng Ðình cho đến Cửu
Chân, Nhật Nam (Việt Thường). Phan Rang ngày nay coi là ngoài biên. (Về Bình
Thuận, Ninh Thuận, Ðại Nam Nhất Thống Chí, phần "kiến trí duyên cách" chép: "Ðất
đây nguyên xưa là nước Nhật Nam ở kiến ngoại (ngoài biên) sau là đất của Chiêm
Thành" (Ðại Nam Nhất Thống Chí, q.XII, tỉnh Bình Thuận, tr.7).
Chẳng phải một tộc Âu Việt phiêu dạt về phương Nam, các tộc Liêu Ðiền (Quý
Châu, Vân Nam) cũng phải chạy về phương Nam cũng như các tộc Thái, Tày, Mèo
(Miêu), Dao đều thuộc dòng Tầy Thái Bách Việt (chữ Thái theo thuyết văn cắt
nghĩa là một giống cỏ, có thể đây là loại ngũ cốc như kê và lúa trồng ở sườn đồi
theo kiểu đốt rẫy nên có bộ hỏa. Thái là tiếng cổ của nước Thục (Âu Việt) ở Tứ
Xuyên được phiên âm ra Hán).
Học giả Aucohrt cho rằng, năm 334 người Việt ở bên Trung Hoa bị dồn xuống
phía Nam, không thấy tác giả nêu lên biến cố lịch sử nào để lấy năm 334 làm điểm
mốc. Ông cho rằng giống Việt ở Trung Hoa biến mất chỉ còn lại giống Việt ở Việt
Nam duy trì bản sắc riêng (P. Aucohrt, "Les Annamites avant la dynastie chinoise
des Han" Les Revue Indochinoise, TXL n 9&10, 1923, tr.229-249).
Nhận định trên đây rất xác thực. Lấy dân tộc Nùng làm thí dụ, địa bàn cư trú
thời viễn cổ ở miền Lưỡng Việt tức là các dân tộc Ô Hử, Lái, Lạo trong dòng Bách
Việt. Người Nùng, theo học giả Pháp Aurousseau là con cháu của người Tây Âu Lạc
Việt (L. Aurousseau, "La premiere conquete des chinois des pays annamites",
BEFEO, tr. XXIII, 1923).
Dân Nùng có mặt ở thượng du vào thế kỷ cuối trước công nguyên, tiếp tục di cư
vào Việt Nam cho đến đời nhà Tống (960-1279) và mãi sau này. Nhờ vậy còn bảo tồn
được văn hóa, truyền thống và ngôn ngữ cũng như có riêng văn tự là chữ nôm Tày,
Nùng... Những tộc Việt còn sống sót ở Hoa Nam đều đã bị Hán hóa. Hoặc trở thành
thiểu số như dân tộc Choang ở Quảng Tây.
Dân Choang (dòng Bách Việt) phiêu bạt đến bắc Diến Ðiện, là tổ tiên của người
Shan Diến Ðiện. (xem Từ Tùng Thạch, Việt Giang lưu vực nhân dân xứ, Trung Hoa
thư cục xuất bản, Bắc Kinh, 1941).
Nùng tuy là một tộc riêng nhưng có nhiều quan hệ lịch sử với tộc Choang và
cùng một huyết hệ Bách Việt. Quảng Tây một số nhóm Nùng như Dù Nùng được coi là
dân tộc Choang (xem Y Quần, Ngã quốc dân tộc giản giới, Dân Tộc Học xuất bản,
Bắc Kinh, 1958).
Chúng tôi trình bày dài dòng như trên là chủ ý để nói rõ rằng ta chỉ ảnh
hưởng văn minh học thuật Trung Quốc kể từ thời Triệu Ðà với nước Nam Việt
(207-111 trước công nguyên). Nhưng ảnh hưởng ấy chưa đáng kể. Giao Châu dưới
thời đô hộ Hán cho đến thế kỷ đầu công nguyên vẫn là bầu trời riêng.
Năm 43 sau công nguyên, Mã Viện dẹp xong cuộc tổng khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng, y dâng biểu lên vua Quang Vũ (25-57) nhà Ðông Hán, trong tờ biểu, Viện
tâu rằng "Luật Việt so với luật Hán vẫn có 10 điểm khác nhau (hậu Hán thư, q.54
- Mã Viện liệt truyện, dẫn bởi Vũ Văn Mẫu. Cổ Luật Việt Nam Lược khảo, Sài Gòn
1970, q.1, tr. 61-62). Như vậy, sau 155 năm kể từ năm 111 trước công nguyên, nhà
Tây Hán cướp nước Nam Việt, luật Việt vẫn còn tồn tại. Tính từ triều đại nhà
Thục nước Âu Lạc (257-207 trước công nguyên).
Trở về thời vua Hùng Văn Lang, Nam Bắc còn cách ly rất rõ rệt, ta chưa từng
chịu ảnh hưởng văn minh học thuật Hoa Hán. Ta có riêng lịch phép (tất nhiên là
còn sơ giản), ta đã có kiến thức về thiên văn và một nền dịch ý phương Nam qua
đạo vuông tròn, thuyết âm dương và cờ ngũ hành với thuyết ngũ hành. Ðạo Tiên,
Ðạo Mẫu và tín ngưỡng thành hoàng, đạo thờ tổ tiên là sản phẩm tinh thần của Lạc
Việt phương Nam và của Bách Việt, khởi từ văn minh Sở Việt.
Họ Tầu và họ Việt
Ta thường có thói quen, thấy ai mang họ hơi khác với người Việt đã vội cho đó
là họ Tầu như họ Mâu, họ Sử, họ Phù... Lại có người cho rằng, dưới thời đô Hán,
vì chưa có chữ nôm, một số họ Việt đã bị Hán hóa do nhu cầu hành chánh của đô hộ
Hán. Ðiều này chỉ là phỏng đoán. Họ Trưng, họ Hoàng, họ Thi vẫn còn tồn tại cho
đến thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Dân tộc Mường vẫn duy trì họ Việt cho đến nay
như họ Quách, họ Hà, họ Cầm... Các dòng họ cổ còn tồn tại đến nay như họ Tiêu,
họ Chử, họ Sử... có thể là một số họ không thể chuyển tả qua chữ Hán nên đã bị
Hán hóa theo âm.
Bộ Trung Quốc Tính Thi Tập của Ðặng Hiến Kim xuất bản ở Ðài Bắc năm 1971
trong đó lược kê được 5652 họ, có họ tên đôi, ba, tên bốn, tên năm. Họ đơn chỉ
có một tên như họ Lý thì rất nhiều (năm 1995, Bắc Kinh thống kê cho biết có vào
khoảng 80 triệu người họ Lý ở Hoa Lục. Hàng năm họ Lý ở Hoa Kỳ tổ chức đại hội
tại Boston). Có những họ lấy bộ tộc làm họ như họ Nùng, như Nùng Trí Cao triều
Lý (sau họ Nùng đổi thành họ Nông). Như họ Khương (dân tộc Khương) hay lấy tên
một miền như họ Tống (thuộc nước Tống).
Người họ Lý Hoa Nam thuộc Thái, Nùng, Tầy lấy tên bộ tộc làm họ (nước Lý, hậu
thân của nước Nam Chiếu ở Vân Nam thuộc tộc Thái). Toàn Thư ghi họ Lý của các
vua triều Lý là từ bên Tầu qua, thực ra là từ Lĩnh Nam. Từ bên Tầu qua chưa phải
là dân Hoa Hán. Một số họ ở Hoa Nam như Trần, Sử, Thi, Triệu... là dấu tích thị
tộc Bách Việt.Họ Lý gốc là dân tộc Lý (trong dòng bách Việt, nước Ðại Lý, nay là
Vân Nam). Họ Liêu, gốc từ dân tộc Liêu (dòng Bách Việt). Hoặc lấy tên của ông
thủy tổ làm cho họ như họ Tư Mã, họ Công Tôn... Trong số gần 6000 họ Trung Hoa,
có 2000 họ đôi, 120 họ ba chữ, 6 họ gồm 4 chữ, 3300 họ đơn, trong số này chỉ có
vào khoảng vài trăm họ thấy trong các họ Việt Nam nhưng thông dụng thì chỉ có
vào khoảng vài chục họ.
Ta có họ Trần khá phổ thông thì Tầu cũng có họ Trần. Tầu có họ Bạch, họ Sử,
họ Phù, họ Giang, ta cũng có những họ này nhưng rất ít.
Dân tộc Mường cũng có họ Bạch. Họ Bạch Việt Nam tuy hiếm nhưng nhiều người
đậu đạt cao. Trạng nguyên Bạch Liêu, người làng Nguyễn Xá, Nghệ An, đậu Trạng
nguyên kỳ thi Thái Học sinh (Tiến sĩ) đời vua Trần Thái Tôn năm 1266 (Ðại Nam
Nhất Thống Chí, Cao Xuân Dục, Tổng tài biên soạn, q. 14 & 15, Bộ văn hóa giáo
dục Sài Gòn. 1965, tr. 122)
Họ Cao ở Nghệ An, theo thể phả, thủy tổ là ông Cao Lỗ, gốc Ngòi Sảo, Bắc
Ninh, người đã chế tạo ra nỏ liễn mà Triệu Ðà gọi là nỏ thần. Họ Cao di ra Thăng
Long rồi từ Thăng Long vào Nghệ An, sau một hệ trở ra Sơn Nam (Nam Ðịnh) định cư
tại đây.
Thám Hoa Cao Quýnh đậu Tiến sĩ (cập đệ, đệ tam danh) triều Lê Thánh Tôn năm
1415 là hậu duệ của Thủy tổ Cao Lỗ, không dính dáng gì đến họ Cao của Tầu. (Ðại
Nam nhất Thống Chí, sđd, tr.126)
Một số họ Lý ở Bắc Ninh, đồng bằng sông Hồng và Thanh Nghệ Tĩnh hiện nay,
không có gốc gác thân tộc bên Tầu (hoặc là do trải qua nhiều đời rồi đã Lạc Việt
hóa). Họ Lý thuộc các vua triều Lý sau khi bị Trần Thủ Ðộ cướp ngôi cho nhà
Trần, buộc phải đổi họ Lý thành họ Nguyễn với lý do "kỵ húy" ông tổ của họ Trần
là Trần Lý. Nhưng nhiều hệ họ Lý không liên hệ với hoàng tộc nhà Lý thì vẫn duy
trì họ Lý mà nhà Trần cũng không bắt tội.
Phần chú, Việt Lược Sử Lược, ghi: "Theo sách Mộng Kê Bút Ðàm của Thẩm Hoạt
đời Tống thì Lý Công Uẩn gốc là người Mân (Phúc Kiến)". Tiến sĩ Từ Bá Tường,
người Quảng Tây, nhà Tống trong thư gửi cho Công Uẩn cũng nói: "Tiên thế đại
vương vốn là người đất Mân. Tôi nghe nói công khanh ở Giao Chỉ cũng nhiều người
đất Mân" (Việt Sử Lược, bản Hán văn, q.II, tập 1ab, bản dịch Trần Quốc Vượng,
tr. 64 "Về nhà Lý" xem "Cương Mục chính biên" q.II tr.4 - Toàn Thư bản kỷ, Kỷ
nhà Lý, q.II, tr.1a)
Mân là Mân Việt, cũng như dân Lưỡng Quảng thường gọi là Việt Ðông (như Từ
Hải, một nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du "Họ Từ tên Hải vốn người Việt
Ðông"). Họ Lý Mân Việt là họ Lý Việt tộc cũng như họ Lý hiện nay ở Quảng Tây,
dân tộc Choang và họ Lý dân tộc Nùng đều là họ Lý Việt tộc (Âu Việt). Nếu gán
ghép họ Lý Lạc Việt, họ Lý Mân Việt, họ Lý Việt Ðông và họ Lý Âu Việt (Tày Nùng
- Choang) với họ Lý Tầu (Hoa Hán) là điều hết sức sai lầm.
Dân tộc Mường cũng có họ Cao, theo tài liệu của một Quan Lang tỉnh Hòa Bình
"Quan Lang khởi tổ từ cuối đời Văn Lang là những con thứ, cháu thứ nhà vua chia
phong cho họ Ðinh, họ Quách, họ Bạch, họ Xậ, họ Cao, sáu họ làm quan lang"
(Quách Ðiền, "Quan Lang Hòa Bình về thời thượng cổ" Nam Phong tạp chí số 100,
tháng 10 & 11, 1925). Ðại Nội Huế
Họ Sử tỉnh Hà Tĩnh không liên hệ gì với họ Sử bên Tầu. Sử Hy Nhan, quán làng
Ngọc Sơn, huyện Can Lộc, trạng nguyên đời vua Trần Duệ Tôn (1372-1377) ông đậu
khoa Tiến sĩ năm 1374 (năm đầu tiên của học vị tiến sĩ, được gọi là Thái Học
sinh). Ông Trạng Hy Nhan "không sách nào là không đọc nên vua đặt họ là họ Sử (Ðại Nam Nhất Thống Chí, sđd, q.13, tỉnh Hà Tĩnh, tr.88)
Tìm trong "Trung Quốc Nhân Danh đại từ điển" ta sẽ thấy nhiều danh từ gốc
Bách Việt nếu đem so với bộ "Bách Việt tiên hiền chí" mà Linh mục học giả Vũ
Ðình Trác đã sưu tầm được. Trong bộ tự điển đồ sộ này, ta tìm thấy danh nhân
Khương Công Phụ, tưởng đâu là người Hán. Khương Công Phụ là người Việt, sinh
quận Nhật Nam (Nghệ Tĩnh bây giờ) qua Tầu du học, đậu tiến sĩ đời vua Ðường Ðức
Tôn (780-804) làm quan Hàn Lâm Học sĩ, thăng đến chức Gián Nghị Ðại Phu đồng
trung thư môn hạ bình chứng sự, đại thần triều đình (Trung Quốc Nhân danh đại
triều, Thượng Hải, Thương vụ ấn thư quán xuất bản, tr. 644).
Khương Công Phụ nổi danh triều nhà Ðường với "Ðối Ðình Sách" tức luận án tiến
sĩ của ông trong kỳ thi Ðình do vua Ðường Ðức Tôn chủ tọa nên rất được vua Ðường
trọng dụng. Danh nhân Khương Công Phụ nổi danh trong văn học giới nhà Ðường với
bài phú "Mây trắng rọi bể xuân", Giáo sư Bùi Cầm đã dịch qua Việt văn (xem Bùi
Cầm, Khương Công Phụ, bài phú Mây Trắng Rọi Bể Xuân, bản Hán văn và bản dịch -
văn Hóa tập san số 54, tháng 9, 1960, tr. 1116).
Ðọc Pháp Hoa Tâm Muội của Khương Tăng Hội, ta sẽ dễ ngộ nhận cho rằng chắc
nhà sư này là người Tầu. Nhưng đấy là một nhà sư Trung Á nước Khương. Theo
Pelliot, "Ðầu thế kỷ thứ ba trước công nguyên, cũng tại Bắc Kỳ, vì mục đích buôn
bán mà gia đình Nguyệt Thị Khang Tăng Hội (Pelliot dịch là Khang) đã định cư.
Khang Tăng Hội về sau đã là một trong dịch giả trứ danh về kinh Phật sang chữ
Hán.
Vẫn ở Bắc Kỳ năm 226 Tần Luận, người La Mã đã tới. Chắc hẳn cũng ở Bắc Kỳ vào
năm 255 đã hoàn thành bản dịch sang Hán văn đầu tiên bộ kinh Phật Pháp Hoa Tam
Muội" (xem Paul Pelliot, tựa dẫn "Mâu tử hay lý hoặc luận", Khảo cổ tập san, số
VII, 1971, tr. 31)
Thủ đô Bắc Kinh xây từ triều nhà Minh (1368-1644), Trung Quốc rất tự hào với
đàn Nam Giao và Tử Cấm Thành, một kiến trúc vĩ đại của Á Ðông. Danh nhân Nguyễn
An, người Việt, là kiến trúc sư vẽ kiểu dựng kinh đô Bắc Kinh. Nguyễn An, người
phiên âm ra tiếng Quan Thoại hay tiếng Quảng Ðông, và viết chữ Hán, thì ông là
người Tầu. Và cũng chẳng bao giờ Trung Quốc nêu danh tánh ông là người Việt (xem
Nguyễn An, một người Việt Nam dựng thành Bắc Kinh, Ðông Thanh số 1, tháng 7,
1932, tr. 53-55).
Nguồn gốc Giao Châu của Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Hoa Nam
Khảo cứu và trình bày về nền nhân chủ nhân văn Phương Ðông mà Việt Nam là tụ
điểm giao lưu, trước hết phải trở về cỗi nguồn văn minh văn hóa và truyền thống
Việt tộc khi chưa chịu ảnh hưởng văn minh học thuật Hoa Hán. Ngay như Phật giáo
Việt Nam cũng phải trở về cỗi nguồn từ thưở Luy Lâu, đầu công nguyên.
Ngày nay đã có nhiều tài liệu giá trị và khả tín cho thấy Phật giáo truyền
vào Việt Nam trực tiếp từ các nhà sư Ấn Ðộ Luy Lâu, thủ phủ của đô hộ Hán cũng
là trung tâm Phật giáo đầu tiên của Giao Châu và toàn vùng Hoa Nam. Giáo sư Ðại
Ðức Lê Mạnh Thát trong một công trình sưu khảo công phu, có thể nói rất có giá
trị, qua các tài liệu thật phong phú đã cho ta thấy rõ điều mà tôi nêu trên. Qua
công trình của Giáo sư Lê Mạnh Thát, ta có thể nói Phật giáo Giao Châu là cội
nguồn khởi thủy của Phật giáo Việt Nam và miền Nam Trung Quốc (xem Lê Mạnh Thát,
"Phật giáo truyền vào nước ta từ lúc nào ?" (Tạp chí Tư Tưởng, Ðại học Vạn Hạnh,
Sài Gòn số 5 & 6 tháng 7 & 8, 1973 và số 7 tháng 9, 1973, số 8 tháng 11 & 12,
1973)).
Tìm về Phật giáo Việt Nam thời mở đầu công nguyên, từ thế kỷ thứ nhất, ta sẽ
thấy đây là nền Việt Phật với nhiều sắc thái đặc thù và độc đáo. Chùa Dâu là
ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam được xây cất từ đầu thế kỷ thứ 3, tọa lạc trên
làng Dâu, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành. Chùa còn có tên là Thiền Ðịnh,
Duyên Ứng, Pháp Vân. Có lẽ phải nói đây là ngôi chùa còn tồn tại từ thời Hán
thuộc đến nay.
Theo truyền thuyết và dã sử trong dân gian thì một số nữ tướng của Hai Bà
Trưng ở chùa. Vậy thì thời gian những năm 40-45, Giao Châu đã có chùa Phật giáo
(xem Cao Thế Dung, Việt Nam Bình Sử Võ Ðạo, q. 1, nxb. Tiếng Mẹ, Phoenix 1993,
tr. 2270). Chùa Bà Dâu ngoài thờ Phật còn thờ Man Nương tức bà Pháp Vân gắn liền
với huyền tích Man Nương, người làng Mãn Xá, tu ở chùa Linh Quang, thụ giáo
Thiền sư Khâu Ðà la người Thiên Trúc (Ấn Ðộ).
Dân làng Dâu tạc tượng thờ Bà ở chùa Thiền Ðình, lại tạc tượng Pháp Vũ tức Bà
Dậu thờ ở chùa Thành Ðạo, tượng Phi Tướng. Tượng Pháp Ðiện tức Bà Ðàn thờ ở Chùa
Phương Quang. Chùa có cả tượng thờ Kim Ðồng, Ngọc Nữ, khuôn dáng y phục và phong
cách Việt Nam (Chùa Dâu, Chùa Ðàn, xem Võ Văn Tường, Việt Nam Danh Lam cổ tự,
nxb. KHXH, Hà Nội 1972, tr. 43).
Lý Hoặc Luận, tác phẩm đầu tiên của Phật giáo Á Ðông viết bằng Hán tự lại do
Mâu Bác viết tại Luy Lâu, Giao Châu. Học giả Pháp Pelliot viết về Mâu Tử và Lý
Hoặc Luận như sau: "Chắc hẳn ông sinh ở Thương Ngô tức Won Tcheon trên Tây Giang
(Si Kiang) hiện tại. Ông lui xuống Bắc Việt ở với mẹ chắc hẳn ngay trước khi vua
Linh Ðế băng hà".
Mâu Từ với Lý Hoặc Luận tức là luận về sự nghi hoặc. Pelliot dịch ra Pháp văn
là "Meou Tseu ou les doutes levées". Về tác phẩm này, Pelliot viết: "Các loại
tác phẩm như thế tôi không từng thấy trong văn chương Trung Hoa trước thời Mâu
Bác có tác phẩm nào giống hệt cả".
Giao Châu thời Mâu Bác là nơi tụ hội các danh sĩ Trung Quốc. "Trong thời rối
loạn cuối thế kỷ thứ hai ở lục địa Trung Hoa, đất Bắc Việt (Giao Chỉ) là nơi còn
hòa bình yên ổn. Nhiều học giả di cư đến đấy mà sự tò mò trí thức của họ thấy
điều kiện thuận lợi cho sự hỗn tạp các dân tộc và tín ngưỡng khác nhau do hoạt
động thông thường đã đến đấy tụ hội".
Văn đối đáp của Mâu Tử không giống văn đối đáp của triết gia Trung Hoa thời
cổ. Sau Mâu Tử, và nhất là từ thế kỷ IV người ta thấy xuất hiện nhiều tác phẩm
khác cùng loại ấy. Nhưng không có tác phẩm nào giàu biện chứng như thế và có lẽ
vì thế mà không một tác phẩm nào được phổ thông bằng tác phẩm Mâu Tử (xem: Mâu
Tử hay Lý Hoặc Luận, tựa dẫn của Pelliot, Khảo cổ tập san số VIII, Sài Gòn 1971,
tr. 29). Mâu Bác sinh ở Thương Ngô, địa bàn cư trú của dòng Bách Việt xưa ở cõi
Lĩnh Nam.
Cửu Ca Sở Từ: Văn chương Việt tộc không phải của Tầu
"Cửu Ca" là những bài hát dùng trong việc tế tự của dân nước Sở gồm 11 thiên,
mỗi thiên dành cho một vị thần. Thiên sau cùng gọi là Lễ Hồn là bài hát tống
(tiễn) thần. ở nước Sở và các nước bị Sở thôn tính, đạo đồng bóng rất thịnh
hành.
Sách "Cổ Ðiển Học Hân Thưởng" mô tả Cửu Ca của nước Sở như sau: "Ðồng cốt có
nhiệm vụ câu thông giữa người và thần, khéo múa hát, cho nên đạo đồng bóng đạt
đến một trình độ nhất định có thể xúc tiến sự phát triển nghệ thuật. Cửu Ca do
đó mà sản sinh. Cửu Ca đã phản ảnh lòng nhiệt ái về việc sanh sôi nẩy nở và ý
muốn trưng cầu hạnh phúc của nước Sở, đồng thời cũng phản ánh niềm sùng kính của
họ đối với những người đã hy sinh cho tổ quốc, lời lẽ thanh tân tú lệ, cảm tình
sung mãn, chân thật. Tuy Khuất Nguyên có góp tài hoa vào đó nhưng nói về việc
thành tựu thì nên qui công cho thi sĩ vô danh trong dân gian" (sđd, tác giả vô
danh, do Phục Hán ấn hành, Ðài Loan 1964, tr. 172. Giáo sư Bùi Cầm dịch và chú
thích).
Cửu Ca là nhạc chương tôn giáo của dân tộc Sở đã có trước thời Khuất Nguyên,
ông chỉ là người sửa lại, bỏ đi những lời quê mùa. Các học giả Hoa Lục, Ðài Loan
và Nhật Bản đều nhất trí về ý kiến Cửu Ca là của dân tộc Sở. Nước Sở thuộc giống
Bộc, Lão tức Việt tộc. Chính vua nước Sở là Hùng Cừ đã nói: "Ta là man di, không
cùng hiệu thụy với Trung Quốc" (xem Tư Mã Thiên Sử ký, q. 40, tr. 3b).Cổ thư
Trung Hoa gọi chung Việt tộc là Bách Bộc hay Di Lão, Khảo Bộc, Chủ Lão, Cưu Lão,
Cửu Lê, sau mới phân ra, gọi giống Việt ở Tây Nam là Bách Bộc, ở Ðông Nam là
Bách Việt. Thời viễn cổ, miền Hồ Bắc và Hồ Nam Trung Quốc ngày nay là lãnh thổ
của người Bộc, Lão. Theo cổ thư, Bộc, Lão và Việt cùng một giống. Ðịa bàn cư trú
của Bộc, Lão bao gồm cả tứ Xuyên, Vân Nam và Quý Châu ngày nay.
Cổ thư về đời Ðường, Bộc còn gọi là Bặc. Thời Ðường (618-906) ở quận Kiều Vi
(Tứ Xuyên ngày nay) vẫn còn là khu vực của người Bặc, ở đây có trống đồng, hát
và diễn tấu trống đồng (Việt tộc). Các điệu hát của dân Bặc, người Tầu gọi là Di
Ca (Di ca đồng cổ bất thương sầu - Trống đồng hát rợ cho lòng buồn thương).
Hiện nay ở Hoa Nam còn sót lại một số tộc Việt như người Lão ở Hoa Nam vẫn
còn tồn tại tục đánh trống đồng, hát, khấn vái và cầu chúc, thường dùng chữ "tá"
làm tiếng đệm, là chữ quen dùng trong Sở Từ. Sách Hậu Hán Thư - Dạ Lang truyện
có nói đến giống Di Lão. Sách Hoa Dương Quốc Chí, Nam Trung Chí chép rằng ở
huyện Ðàm Hòa, quận Kiến Ninh có người bộc Lão, huyện Linh Châu có người Chủ
Lão, quận Vĩnh Xương có Mâu Bộc, Cưu Lão, Phiêu Việt, Khoa Bộc.
Nước Sở vào đời vua Hùng Dịch, kinh đô ở Ðơn Dương (huyện Tỷ Quy, tỉnh Hồ
Bắc) sau dời đến Kinh Sơn (huyện Nam Chương, Hồ bắc). Theo sách Thũy Kinh Chú,
Sở Văn Vương dời đô từ Ðơn Dương đến đất Dĩnh.
Như trên đã trình bày sơ lược Trung Quốc rất tự hào về Sở Từ với Cửu Ca và
khúc Ly Tao của Khuất Nguyên, coi đó là những áng văn chương trác tuyệt của văn
học cổ Trung Quốc nhưng lại là của Việt tộc. Học giả Lăng Thuần Thành nghiên cứu
về trống đồng và Sở Từ Cửu Ca đã đi đến kết luận: Cửu Ca chính là nhạc chương
của dân tộc Bộc Lão (Việt tộc). Dân tộc Bộc Việt (hay Lão Việt) là chủ nhân của
các trống đồng chẳng những ở Việt Nam ngày nay mà trống đồng còn khởi nguyên ở
miền trung du Trường giang (sông Dương Tử) quanh vùng đầm Vân Mộng (hai tỉnh Hồ
bắc và Hồ Nam).
Một số tác giả cổ thư Trung Quốc cho rằng Khuất Nguyên sáng tác Cửu Ca, trong
Khuất Nguyên Ngoại Truyện của Thẩm Á Chí đời Ðường cho rằng: Khuất Nguyên đã
từng đi chơi vùng sông Nguyên và sông Tương, dân ở đó có tục thích cúng tế, làm
nhạc ca để vui lòng thần, lời rất quê mùa, ông nhân đó ở lại núi Ngọc Tử để làm
Cửu Ca.
Thực ra Khuất Nguyên chỉ sửa lại Cửu Ca của người đồng tộc. Chu Hy trong sách
"Sở Từ tập Chú" viết một cách rõ rệt: Ngày xưa, ở ấp Dĩnh nước Sở, giữa khoảng
sông Nguyên và sông Tương, dân ở đó có tục tín ngưỡng thờ thần (quỷ đây chỉ linh
hồn mà không phải quỷ trong nghĩa ma quỷ) và thích thờ cúng. Mỗi khi cúng tế thì
khiến đồng cốt hát múa để làm vui thần (...). Khuất Nguyên sau bị phong trục (bị
đày) thất thế mà cảm nên mới sửa lại lời ca, bỏ những chữ quá đáng" (Ghi chú về
Chu Hy (1130-1200) một triết gia danh tiếng Trung Hoa đời nhà Tống, người tỉnh
An Huy, đậu Tiến sĩ năm 18 tuổi, làm quan được ít lâu thì bỏ về, mở trường dạy
học ở Phúc Kiến nên người đời sau gọi học phái của ông là Mâu Phái, tác giả các
bộ Dịch bàn nghĩa, Dịch học khải mông, Tứ thư thập chú, Văn tập, Ngũ lục, Gia
lễ...).
Cửu Ca có 11 bài, sao gọi là Cửu Ca? Trong Sở Từ Sớ, Lục Thời Ung cho rằng
"Quốc thương" và "Lễ hồn" là hai bài không thuộc Cửu Ca. Trong "Chiêu Minh Văn
Tuyển" thì chỉ có Cửu Ca, không có Quốc thương và Lễ hồn. Riêng Quốc Thương là
bài hát của người nước Sở dùng để cúng tế những chiến sĩ đã chết vì tổ quốc.
Người xưa chết non (chưa quá 20 tuổi) gọi là Thương. Thương trong Quốc Thương
chỉ trai tráng đã bỏ mình nơi chiến trường. Quốc Thương thể hiện tinh thần yêu
nước và lòng sùng kính của dân Sở đối với anh hùng của dân tộc "vị quốc vong
thân". Các tộc Việt sau này cũng một tinh thần và lòng sùng kính như vậy (xem
Nguyễn Ðình Chiểu, Văn Tế sĩ dân lục tỉnh, Văn tế Trương Công Ðịnh, Văn tế Vong
hồn mộ chi nghĩa...).
Tín ngưỡng thờ Trời và thần thánh
Dân tộc Việt Nam từ thời viễn cổ lấy việc thờ Trời làm đầu. Trong Cửu Ca,
Ðông Hoàng Thái Nhất (tức là đấng chỉ có một - thái nhất - là trời, tức là hoàng
(Thiên thu thủy trong sách Trang Tử có chữ Ðại Hoàng chỉ Trời) đồng nghĩa với
Thượng Hoàng trong Cửu Ca. Vân Trung Quân là thần mây, có thuyết cho là Thần Mặt
Trăng. Tương quân và Tương phu nhân không phải là Nga hoàng hậu và Nữ Anh, con
vua Nghiêu và vợ vua Thuấn. Khi cúng lễ hai vị thần này, hai bên đối đáp với
nhau và múa. Lời hát đầy tình tự luyến ái. Ðại tư mệnh là vị thần chủ quản thên
mệnh của mọi người.
Ðông quân là thần mặt trời (trống đồng Ðông Sơn có liên quan đến tín ngưỡng
thờ mặt trời của dân Lạc Việt, xem M. Colani, Vestiges d’un culte solaire en
Indochine - BIIEH, T III, Fasc 1, 1940, tr. 37-41 - Những dấu tích của tục thờ
mặt trời ở Ðông Dương).
Thiếu tư mệnh là vị thần chủ quản của thiếu niên nhi đồng. Ðông quân là thần
mặt trời. Hà Bá là thủy thần. Sơn quỷ là thần núi thuộc nữ tính.
Thờ thần phổ biến nhất trong các tộc Bách Việt và cũng như Lạc Việt. Sau Thủy
thần là thờ các anh hùng dân tộc đã chết cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc thì Sở
Việt thế nào thì Lạc Việt cũng như thế.
San định lại Cửu Ca, Khuất Nguyên mô tả: Bộc Lão (Việt tộc) thường cúng 9
thần trời đất, sông núi (từ Ðông Hoàng Thái Nhất đến Sơn quỷ). Bản thân Khuất
Nguyên cũng là dân Bộc Lão (về Khuất Nguyên và tác phẩm Ly tao, tham khảo: Du
Quốc Ân, Khuất Nguyên, Hương Cảng Học Lâm thư điếm xuất bản 1959). Hai chữ "sông
núi" thiết thân nên sông núi còn để chỉ đất nước, đồng nghĩa với giang sơn.
Học giả Lăng Thuần Thanh so sánh văn chương Cửu Ca và văn dạng trên trống
đồng, cho thấy đều chỉ một dạng tế thần. Những hình trạm trên trống đồng phần
nhiều có tính chất tôn giáo như múa hát, đua thuyền, đều là những động tác trong
các buổi lễ tế trời, đất núi sông. Theo Lãng tiên sinh, "Dân tộc Lão ngày xưa ở
trên bờ nước nên họ dùng thuyền để nghinh (rước) thần và tống (tiễn) thần, dù là
thiên thần (Lăng Thuần Thanh, Ðồng cổ đồ văn dữ Sở Từ Cửu Ca, tlđd, tr. 403)
Các hình khắc chạm trên trống đồng Ðông Sơn, Ngọc Lũ, trống đồng Mường, cũng
một dạng vẽ và ý nghĩa như thế, như trống đồng của Việt tộc ở Hoa Nam.Văn minh
Việt tộc là một sợi chỉ vàng kéo dài xuyên suốt từ quê hương Bộc, Lão Việt tộc
cho đến phương Nam Lạc Việt, Việt Thường. Từ khởi thủy, khai nguyên, ta đã khác
với văn minh Hán tộc. Về mặt tín ngưỡng thì thờ trời, đất, là đấng tối cao. Sau
là các thần linh mà thủy thần là trọng yếu hơn cả. Bởi vì Việt tộc lấy nước làm
gốc. Nước Non là một từ kép, không tách rời. Nước cũng là bản tinh của Việt tộc
tức dân tộc tính tức thủy tinh.
Nền dân chủ Việt hoàn thành từ thuở "dựng đất dựng trời" từ có núi sông trong
ý niệm riêng của Việt tộc, không dính dáng gì đến ông Bàn Cổ là thần thoại của
Hoa Hán. Thủy thần mà dân Sở Việt thờ (sông Tương, sông Nguyên) là một cặp nam
nữ chứ không lẻ loi. Dân Hán sau này vì nhận Sở Từ là tinh hoa ưu việt của nền
văn học cổ Trung Quốc cho nên họ cũng diễn dịch hai vị thủy thần mà dân Việt thờ
và ca tụng trong Cửu Ca.
Bài "Tương phu nhân" là bài ca cúng Nga Hoàng và Nữ Anh (như đã viết ở trên,
xin nhắc lại, là con gái vua Nghiêu và vợ vua Thuấn). Nhưng không phải như vậy,
vua Thuấn lên ngôi được 30 năm, Hậu Dực tức Nga Hoàng mới mất. Hậu Dực không có
con. Nữ Anh sinh con là Quân và sau khi vua Thuấn chết, nàng theo con đến ở đất
Thương vì Quân được phong tước ở đó.
Tại đất Thương có mộ của Nữ Anh (Theo sách Trúc Thư Kỷ Niên, trích dẫn bởi
Lăng Thuần Thanh, bản dịch của Bửu Cầm, tlđd, tập san Sử Ðịa số 25, 1973, tr.
59). Như vậy, hai vị thủy thần trong Cửu ca không phải là hai bài Hoàng người
Hán mà là một cặp mới có hai bà ca Tương Quân và Tương phu nhân. Lạc Long Quân
và Âu Cơ trong huyền thoại của Lạc Việt cũng đều là hai vị thủy thần, một nam
một nữ y như Tương Quân và Tương phu nhân của Sở.
Cội nguồn văn minh Việt tộc qua một vài nét về chữ Nôm
Các di khảo cổ học đã cho thấy Việt tộc thời viễn cổ đã có văn tự, trước cả
Hoa Hán, nếu không thì cùng thời với Hoa Hán đời Thương Ân. Nhà khảo cổ Pháp V.
Golouchew đã tìm ra dấu tích của một loại văn tự cổ của Việt tộc khắc trên các
hốc đá của vùng Chapa, thượng du Bắc Việt (xem V. Golouchew "Roches gravés dans
la région de Chapa, BEFFO, T XXV, 1925, tr. 423).
Chữ Nôm là một thành tựu rất to lớn của dân tộc Việt trước khi có chữ Quốc
ngữ. Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) gọi là "Quốc âm Hán tự", ông đề nghị triều
đình Huế soạn thảo và ấn hành bộ tự điển Nôm cũng như sử dụng chữ Nôm trong các
loại công văn của chính phủ (Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Hà Nội
1944, tr. 358).Chữ Nôm có từ thời nào? Có thuyết cho rằng từ thời Sỹ Nhiếp làm
Thái thú Giao Chỉ (187-226), một Thái thú "học vấn uyên bác" (xem Việt Sử Lược,
bản Hán văn q.I, tr.5a - bản dịch Trần Quốc Vượng, Hà Nội 1960, tr. 22).
Nhưng cũng chưa có tài liệu nào căn cớ rõ rệt. Nói chung thì chữ Nôm đã có từ
thời viễn cổ. Một số tộc trong dòng Bách Việt đã có hai loại chữ viết giống như
chữ Nôm của ta. Người Thổ hay Tầy cũng có chữ Nôm gọi là "Nôm thổ" (trên thực
tế, danh xưng "Thổ" chỉ là để chỉ người địa phương tức chủng tộc Thái ở thượng
du, vân Nam và Quảng Tây).
Theo học giả Văn Hựu, trong một bài khảo cứu nhan đề "Quảng Tây - Thái Bình
phủ thuộc thổ châu huyện ty dịch ngữ khảo" ông Văn Hựu nêu lên 104 tục tự của
Phủ Thái Bình (Quảng Tây) trên quan điểm văn tự học, ông đem so sánh với chữ Nôm
Việt Nam. Người Thổ vùng này đồng tộc với người Thổ Quảng Tây. Kết quả đem đối
chiếu hình thể chữ Nôm ở vùng Cao Bằng Lạng Sơn và ở Thái Bình phủ có 38 định lệ
mà hàng trên là chữ Nôm của người Thổ Cao Bằng Lạng Sơn và hàng dưới là người
Thổ phủ Thái Bình (Văn Hựu, tlđd, Tạp san Sở Nghiên cứu ngôn ngữ - Viện nghiên
cứu quốc lập trung ương, Ðài Bắc, số 6, kỳ IV, tr. 497, dẫn trong Trần Kinh Hòa
"Hình thái và niên đại sản xuất của chữ Nôm", tạp chí Ðại Học (Huế) số 35&36
tháng 10&12, 1963, tr. 730).
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên trong bài khảo cứu về văn minh Việt Nam, sưu tập
được bài "Chúc Hôn Ca" bằng chữ Nôm của người Thổ Cao Bằng Lạng Sơn thì chữ Nôm
của người Kinh và Nôm Thổ đã có liên hệ mật thiết (xem Nguyễn Văn Huyên, La
Civilisation Anamite, Hà Nội, 1944, tr. 251).
Sỹ Nhiếp là người Quảng Tây, địa bàn của dân tộc Bách Việt xưa tức cõi Lĩnh
Nam. Quảng Tây còn một thứ "tục tự" (giống như chữ Nôm Thổ và rất gần gũi với
chữ Nôm Kinh). Các chữ "tục tự" này có thời viễn cổ và sau này thấy trong các bộ
sách như Quế Hải ngu hành chí và Lĩnh ngoại đại đáp đời nhà Tống (960-1279).
Theo tác giả Lê Dư, khi Sỹ Nhiếp tới Giao Chỉ, phỏng theo những tục tự của
Quảng Tây mà chế ra chữ Nôm (Sở Cuồng Lê Dư, chữ Nôm với chữ Quốc ngữ, Nam Phong
tạp chí số 127, tháng 5, 1932, tr. 495).
Xa hơn nữa là chữ "khoa đẩu" đã xuất hiện từ thời Hùng Vương văn Lang cho ta
thấy dân tộc Việt đã sớm có văn tự, cỗi nguồn văn minh văn hóa Việt tộc phát
xuất từ đây chưa từng tiếp xúc và ảnh hưởng văn minh Hoa Hán.
Giáo sư Cao Thế Dung
| |