TIẾNG VIỆT & MỘT SỐ TÁC PHẨM
MỚI PHÁT HIỆN

Phần II

Nguyễn Vy Khanh

 

3. Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch (1916):

Ðây có thể nói là một trong những truyện Việt Nam viết theo truyện Tàu đâu tiên đượm tinh thần Thiên Chúa giáo. Truyện được đăng trên tờ Nam Kỳ Ðịa Phận từ số 403 (1916) đến số 415 (1917), tác giả là Charles Ngọc Minh đến nay vẫn chưa tìm ra tiểu sử. Truyện cho thấy ở Nam Kỳ, truyện Tàu rất ảnh hưởng đến quần chúng thế nào, khiến cho những người truyền đạo mượn lối viết đó để truyền bá đạo mà tác giả tin là phù hợp với đạo lý dựa trên Nho học bình dân. Truyện cũng có nhiều tình tiết giống các truyện Kiều và Lục Vân Tiên; các truyện này được viết theo thể văn vần trong khi Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch viết theo văn xuôi.


Ðoạn mở đầu truyện:

"Tôi thường nghe bên Nho giáo nói rằng: Họa vô đơn chí (cái họa không xảy đến lẻ một mình). Chữ từ chữ thì nghĩa như vậy mà hiểu cho rõ câu ấy có ý chỉ làm sao, thì tôi chưa hiểu rõ. Nay nhơn lúc rảnh, giở sách tích truyện đời xưa gặp cái cơ hội nhà ông Gioang này, thì bây giờ tôi mới thấu động ý nghĩa sâu cái câu "họa vô đơn chí" là gì."

Sau đó tác giả cắt nghĩa thêm: "Anh hùng hào kiệt đời xưa có chăm lo bốn chữ Trung Cang Nghĩa Khí, thì vẫn có ý trông danh vọng lưu hậu thế, hoặc cho đặng thắng lộc tấn quyền. Còn như ông Ngô Kim này thì lại khác, không màng chi danh tiếng phước lộc, can tâm gánh hết các sự gian nan vì biết trong trời đất có Ðấng Chí Linh, công bình chính trực, chầy kíp cái nạn người ngay có ngày phải hết, đặng lãnh thưởng và chẳng bao lâu chước độc kẻ gian phải tỏ bày mà chịu phạt..."

Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch theo chuyện Tàu ở chổ nội dung nói chuyện đạo đức, ở lối chia truyện làm 11 hồi với hai câu thất ngôn ở đầu mỗi hồi, cũng như lối mở đầu câu chuyện:

"Lối năm 1685, gần rốt đời nhà Minh, buổi vua Thần Tông, ở Triệu Khánh phủ về tỉnh Quảng Ðông có nhà kia hai vợ chồng sanh đặng một trai đặt tên là Joseph Ngô Kim Luông, cha tên là Gioang Ngô Kim Thạch, mẹ là Martha Ðặng Ngọc Khanh". Nội dung là chuyện luân lý, một kết hợp giữa tam cương ngũ thường của đạo Nho với mười điều răn (thập giới) của Thiên Chúa Giáo, giữa nhân ái của Khổng giáo với bác ái của đạo Chúa, với đức tin vào Thiên Chúa là cha trên trời chí công và chí nhân:

"Ông Gioang Ngô Kim ra sức dạy dỗ con cho nó ghi tạc vào lòng khăng khăng đức tin, cậy, kính, mến, và lo các nghĩa cho con hiểu biết mấy điều luật tự nhiên: Tam giáo và tam cương ngũ thường (...) Cha mẹ yêu thương con thật, nhất là vì có một con mà thôi, song cha mẹ bằng lòng thấy con chết trước mặt, chẳng thà thấy con sai lỗi điều gì trong đạo thánh, tam cang ngũ thường. Chẳng những lành phải trả lành, mà lại dầu dữ cũng phải trả lành thay vậy, mắc giữ sự trung với bạn trung, mà cũng mắc giữ trung với kẻ bất trung nữa, làm người thì phải lo cho tròn trung tín".

Truyện kể chuyện cấm đạo bên Trung Hoa nhưng tác giả có ngụ ý nói chuyện Việt Nam. Vì cấm đạo, nhiều vị quan tài ba phải lẳng lặng từ quan quy điền, gia đình ông Gioang Ngô Kim Thạch phải trốn lên núi, rồi lạc nhau và phải chịu nhiều đau thương. Nhưng chính những người bị vua quan bách hại vì nghi ngờ lòng trung lại là những người trung quân ái quốc. Cuối cùng biết chuyện, vua đã phong tặng các người có đạo và ban sắc chỉ khen đạo "cho phép mọi người giữ đạo và phép đạo mặc ý mình". Con ông Ngô Kim Thạch là Kim Luông giúp vua đánh diệt giặc, được vua quan phong lãnh ấn Nhị Lộ Nguyên Soái. Vua đón Kim Luông hồi triều, lại đứng ra làm chủ hôn: "Vua đứng làm mai và cho phép làm theo lễ phép hôn nhân có đạo. Cũng thêm một dịp cho vua chúa nhìn biết lòng can đởm trung quân ái quốc. thẳng ngay của kẻ có đạo. Và từ đó vua ra sắc ban khen đạo thánh Chúa Kirixitô và cho phép giữ đạo và phép đạo mặc ý mình". Rõ là những lời muốn nhắn gửi những vị vua thiển cận như Minh Mạng, Tự Ðức đã nhắm mắt nghe sự xiển nịnh các vị hủ nho. Chính sự hủ lậu này làm mất nước chứ không phải vì đạo Chúa; đạo nào cũng có kẻ theo giặc, ai đi với giặc thì cứ bắt người đó nhưng đừng lấy cớ đó để bắt đạo, cấm đạo !

Tiếng Việt dùng trong truyện là một lối văn bình dị, đơn sơ mà sáng sủa, của đầu thế kỷ XX, khác xa truyện Kiều và gần với Lục Vân Tiên về tiếng nói dân gian, ngôn ngữ của người bình dân.


4. Tiếng "nhà thờ" hay tiếng Việt xưa?

Tác phẩm chữ Nôm xưa hiện có phải nói đến là cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông (thế kỷ XVII) của Majorica và một tác phẩm văn học xưa viết bằng chữ quốc ngữ đã in là cuốn Inê Tử Ðạo Văn gồm 560 câu thơ lục bát in trong cuốn Tự Vị Latinh-Việt Tabert (1838). Nhưng qua ba tác phẩm vừa giới thiệu, người đọc đã có thể thấy có một "thứ" tiếng Việt khác phần nào với tiếng Việt hiện nay, khác về cấu trúc, khác trong cách xử dụng chữ và thành ngữ, tiếng Hán Việt cũng ít hơn, vv.

Tiếng nói là một bộ phận chính của văn hóa một dân tộc. Tiếng Việt từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh và Nam tiến cho đến ngày nay đã có những khía cạnh chưa được điều nghiên kỹ. Chiến tranh nối tiếp nhau đã khiến con người chỉ lo sống còn, rồi trở nên phân hóa, có những thành kiến, vv. Tiếng nói và chữ viết người Việt chúng ta đã tiến hóa theo thời đại và con người. Nhưng nếu tiến hóa mà mất cội nguồn, phải chăng đó là chuyện tốt?

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, sự mở cửa đón nhận những trào lưu văn hóa và khoa học hiện đại, tiếng Việt đã phải thu nhận, sáng chế ra thêm những từ ngữ mới. Nghiên cứu sách báo xuất bản trong Nam là nơi phải tiếp xúc văn hóa thực dân trước cho thấy có những cố gắng du nhập trên căn bản dân tộc, những cuốn từ điển của Huình Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, những biên khảo giới thiệu các khoa học mới như Phép Toán, Phép Ðo, Bác Học Sơ Giai của Huình Tịnh Của, rồi những phong trào Ðông Du, Duy Tân xuất phát trước trong Nam. Ðàng Trong và miền Nam cho đến đầu thế kỷ XX đã thành công chận đứng xâm nhập văn hóa từ thuộc địa Pháp bằng cách phát huy những căn bản văn hóa bình dân của dân tộc. Xuất hiện sau nhưng báo chí miền Bắc có thể vì vị trí địa lý thuận tiện và cũng có thể vì giới trí thức dễ đón nhận sản phẩm văn hóa ngoại nhập dễ dàng từ hàng xóm Trung Hoa, do đó các trào lưu văn học và khuynh hướng học thuật đã dễ nhập đất "ngàn năm văn vật", mà sau đó các trường phái văn học và tư tưởng cũng đâm bông dễ dàng hơn ở vùng đất này. Trên tạp chí Nam Phong số 16 (tháng 10-1918), ông Nguyễn Háo Vĩnh, ký giả, từ Sài Gòn gửi "Thư ngỏ cho chủ bút Nam Phong" đã lên tiếng đả kích chủ trương nhu nhập ào ạt vào tiếng Việt những từ ngữ mượn từ tiếng Hán Việt mà lúc bấy giờ Phạm Quỳnh, chủ bút Nam Phong là người hăng hái nhất cùng với các cộng sự viên khác như Nguyễn Ðỗ Mục, Phan Kế Bính, vv. Nam Phong đã có những ảnh hưởng rất lớn về văn chương học thuật và đã đóng góp nhiều cho sự phát triễn của chữ quốc ngữ, nhưng đồng thời đã biến tiếng Việt phát triễn theo một con đường tuy lớn rộng nhưng đã xa lần những người Việt không đi cùng đường và người Việt trong Nam. Miền Nam đã là nơi trú ẩn những thành phần chống lại đô hộ văn hóa của Tống Nho, những người chỉ thu nhận những cốt lõi văn hóa của Tam giáo, sau lại là phần đất tị nạn của những người Việt theo đạo Thiên Chủa hoặc không sống được ở Ðàng Ngoài. Phan Khôi đã nhìn nhận: "Ðại khái chữ quốc ngữ nước ta, phát nguyên tuy từ Bắc, mà bắt đầu thạnh hành lại từ miền Nam. Cho nên bây giờ chúng ta có thể nói được rằng xứ Nam kỳ đối với lịch sử chữ quốc ngữ lại có quan hệ mật thiết hơn Trung, Bắc kỳ" (3). Xin nhắc: ông Phan Khôi đã nói như vậy vào năm 1929 !

Thật vậy, người miền Nam lúc bấy giờ đã không hiểu thứ tiếng Việt dùng trên Nam Phong tạp chí. Nhập cảng từ vựng Trung Hoa rồi Hán Việt hóa, trong khi đó tiếng Việt đơn giản đã có lại không được dùng, cái họa bắt đầu được nhìn thấy, người còn để lại dấu vết là ông Nguyễn Háo Vĩnh, tác giả cuốn Cách Vật Trí Tri Phổ Thông Sơ Giai (1927) và chủ trương báo Khoa Học Tập Chí từ năm 1924. Ông tố cáo tạp chí Nam Phong: "Các ngài làm thư thế thì hình như các ngài là người Tàu qua lấy nước An Nam, muốn đem tiếng nó qua mà thế tiếng ta vậy" (4).

Trong Sấm Truyền Ca, Ðại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký và Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch, ta đã thấy tiếng Việt miền Nam ở thế kỷ XVII đến XX thật đơn giản, bình dị. Rồi trong Tuồng Cha Minh (1881, thật ra gần kịch nói hơn là tuồng), theo giáo sư Hoàng Châu Ký từng viện trưởng viện nghiên cứu sân khấu Hà Nội, văn đối thoại trong vở này rất gần gũi với lời nói của dân giả, mới mẻ và đơn giản hơn câu văn đầu thế kỷ XX như văn Nam Phong chuộng lối văn biền ngẫu và cách điệu. Ông nhân đó đặt lại quan niệm cho rằng vở kịch Chén Thuốc Ðộc của Vũ Ðình Long diễn năm 1921 ở Hà Nội là vở kịch nói đầu tiên (5).

Học giả Phan Khôi trong bài "Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ với thế lực của phụ nữ" trên tờ Phụ Nữ Tân Văn số 28 (7-11-1929) đã nhìn nhận thứ chữ quốc ngữ dùng trong môi trường đạo Công giáo thống nhất một mối nghĩa là pha lẫn Bắc Nam. Ông cũng đề cao hai tiền bối Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của mà ông tôn là "đại sư" vì hai ông đều viết đúng tiếng Việt: "hai ông cùng học trường bên Ðạo mà ra cho nên các ông ấy viết chữ như người bên Ðạo nghĩa là viết đúng" (6) Tưởng cũng nên ghi lại ở đây, "trường phái" Trương Vĩnh Ký tiếp nối với Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản tác giả tiểu thuyết đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ Thầy Lazarô Phiền. Linh mục Thanh Lãng trong các nghiên cứu cuối đời, những nghiên cứu trong tâm tình dân tộc như ông đã tự kiểm thảo (7), đã kết luận về tiếng Việt "nhà thờ" "đúng thật là tiếng Việt thông thường, phổ thông mà mọi người Việt thời xưa đã nói, tức là cái giới gọi là "nhà thờ" đó, đã nói như mọi người Việt nhà quê cái thứ tiếng nói nhà quê, tiếng nói dân gian mà mọi người Việt nhà quê nói với nhau, hiểu vơí nhau một cách bình thường" (8). Cũng theo ông, tác phẩm do cộng đồng Công giáo biên soạn vào thế kỷ XVII hiện còn giữ được, sách vở bằng chữ quốc ngữ chỉ có khoảng 700 trang, trong khi đó tài liệu bằng chữ Nôm còn đưộc 14 tựa với cả 4200 trang; 4200 trang chữ Nôm gốc của thế kỷ XVII chưa bị sửa đồi theo thời gian. Ngoài các tác phẩm chữ Nôm và quốc ngữ đã giới thiệu ở trên, còn có nhiều văn bản chữ Nôm và quốc ngữ khác được lưu trữ ở Âu châu mà các giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp, linh mục Thanh Lãng, Ðỗ Quang Chính, vv đã khám phá và chụp vi bản đem về nước. Viện Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội đã sưu tầm được 24 văn bản chữ Nôm thuộc thế kỷ XVII trong đó có những bản từng được lưu trữ ở chùa Kiểng Phước tại Vọng Các, Thái Lan. Những văn bản sau này là dấu vết chữ Nôm dùng ở đàng Trong.

Những người đàng Ngoài vào Nam lập nghiệp, theo chân các chúa Nguyễn, đã mang theo gia tài văn hóa trong đó có tiếng nói và chữ viết Nôm (và chữ Hán). Sự phân chia địa lý sẽ đưa đến những dị biệt hay cách biệt về văn hóa. Một văn hóa trưỡng thành song hành với những điều kiện khác biệt và với những con người thành phần tập hợp mới. Ông bà ta sẽ đồng hóa người Chiêm Thành, nhưng ta cũng đã bị ảnh hưởng trở lại về văn hóa. Tổ tiên ta cũng sẽ nuốt phần Thủy Chân Lạp. Vua chúa nhà Nguyễn sẽ mở rộng tay đón nhận con cháu nhà Minh; những người này sẽ khai phá những vùng thị tứ mới nay là Chợ Lớn, Biên Hòa, Hà Tiên, vv. Xa Ðàng Ngoài, một tập thể người Việt mới được thành lập, trên mảnh đất đã trãi qua những văn minh Sa Huỳnh, Ðồng Nai hoặc xa xưa hơn như Óc-Eo, Phù Nam; những lưu dân này sẽ giữ lại những nòng cốt văn hóa của Nho giáo, Ðạo giáo, Phật giáo đại thừa rồi thêm ảnh hưởng của Phật giáo tiểu thừa và đạo Bà La Môn.

Từ những lý đó, tiếng nói lưu dân nơi vùng đất mới sẽ "cập nhật" theo hoàn cảnh sinh hoạt và môi trường địa lý mới. Những "hội nhập" này khiến chữ viết Nôm trong Nam đã có những biến hóa, cấu trúc khác đi theo phát âm, lối viết và phương ngữ Nam bộ. Thí dụ phương ngữ như "chả", "dùa", dị biệt về phát âm như "Chun, chuyến, chiền", thay vì "chung, chiến, truyền / chuyền" (9). Từ đó như tạo thành một "thứ" tiếng Việt của miền Nam lưu dân mà từ lâu nay vẫn bị gán là "tiếng của nhà thờ". Ông Nguyễn Háo Vĩnh trong bài nói trên đã viết tiếp lời phê về văn Nam Phong như sau: "Coi mà chẳng hiểu thì có ích gì đâu, dần dần người ta ngã lòng trông cậy chẳng còn muốn coi nữa". Mới nghe thì có vẻ văn "nhà thờ", nhưng thật ra không có thứ văn nào gọi là văn "nhà thờ", chỉ có tiếng Việt dùng vào chốn nhà thờ cũng như tiếng Việt dùng ở chùa đình vậy thôi. Với những khám phá mới, có khi chỉ là một trở về nguồn với văn bản thời thế kỷ XVII và sau đó như đã đề cập trong bài này, có thể nói từ khi Nam Bắc phân tranh, ở Ðàng Trong, tiếng nói bắt đầu xa dần đồng bào ở Ðàng Ngoài; đến khi các vua Nguyễn Huệ và Gia Long thống nhất đất nước, tiếng Việt Ðàng Ngoài sẽ tiếp tục phát triễn theo một hướng độc lập với người trong Nam, trở thành một tiếng nói và viết có khác biệt. Trong khi đó trong Nam, đồng bào di dân từ Bắc vào, từ các thế kỷ XVII và XVIII, vẫn tiếp tục nói tiếng nói họ mang theo vào. Ðó là tiếng Việt được giới tu sĩ và giáo dân Công giáo như các linh mục Lữ Y Ðoan, Philippe Phan Văn Minh, vv xử dụng cũng như mọi người trong cùng xã hội. Ðó cũng là tiếng Việt mà các nhà văn nhà báo và trí thức trong Nam từ Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của đến Nguyễn Trọng Quản, Trương Minh Ký, Nguyễn Háo Vĩnh, các nhà báo của tờ Nam Kỳ Ðịa Phận, vv xử dụng. Ðó cũng là tiếng Việt mà những cộng đồng người Việt lưu vong ở Miên, Lào và Xiêm vẫn nói từ khi họ phải rời đất nước. Tiếng Việt đó là tiếng Việt thống nhất mà Phan Khôi trên Phụ Nữ Tân Văn nói đến và khởi từ đó ông phê bình những nhà báo ở Sài Gòn lúc bấy giờ viết sai tiếng Việt - nghĩa là sai tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, tiếng vẫn bị coi là của "nhà thờ" ! Nếu có ai muốn phê tiếng Nam viết sai nói sai, nên phân biệt với tiếng Việt thống nhất này, tiếng xưa nay có nhiều dấu vết ở trong Nam !

Như vậy, vì hoàn cảnh canh tân, hiện đại, tiếng Việt đã phát triễn mạnh từ những năm 1920 với sự nhập cảng ồ ạt từ vựng mới của Trung Hoa (và Nhật) với tạp chí Nam Phong, sau đó theo đà Âu Tây hóa, các báo của Tự Lực Văn Ðoàn, Tân Dân, nhóm Hàn Thuyên, rồi phân chia Nam Bắc, tiếng Việt thêm nhiều từ mới. Và tiếng Việt trước 1920 bị xem là tiếng "nhà thờ" và bị bỏ quên, các hoàn cảnh biến cố tiếp sau đó đã tiếp tục đẩy đưa cái khuynh hướng này. Cùng tiếng nói nhưng có những dị biệt về chữ viết, thành ngữ và phát âm khiến không hiểu nhau trọn vẹn. Ðây cũng cùng trường hợp với tiếng Pháp dùng ở Canada là tiếng Pháp cổ thế kỷ XV do những di dân từ mẫu quốc sang vẫn xử dụng. Ðế quốc Pháp thua Anh, bỏ rơi luôn dân của họ. Bên này Ðại Tây Dương, người mẫu quốc phát triễn tiếng nói và xa dần hẳn tiếng Pháp của "anh em họ" (cousins) ở Canada.

Mặt khác, tiếng Việt trước 1920 đơn giản, bình dị thế nào thì tiếng Việt canh tân sau 1920 trừu tượng hơn nhiều, dù từ những thế kỷ XVII đã có nhu cầu sáng chế nhiều từ Hán Việt và từ Tây hóa (phiên âm) để theo kịp đà tiến hóa và tiếp xúc với Tây phương. Trừu tượng, đó là lý do khiến ký giả Nguyễn Háo Vĩnh phàn nàn với ông Phạm Quỳnh. Một "học sanh về điện máy chuyên nghề", Nguyễn Duy Thanh ở Paris, góp ý trên Phụ Nữ Tân Văn số 119 (18-12-1932), đã chỉ trích Phạm Quỳnh làm tối tiếng Việt. Ông đưa ra những thí dụ những tiếng Việt dễ hiểu như "màng ngăn bụng, mạch máu nhỏ tí, mạch máu đi, mạch máu về" hay "chung của" bị ông Phạm Quỳnh thay thế bằng "hoành cách mô, vi ti huyết quản, hồi huyết quản, khứ huyết quản" và "cộng sản". Theo ông, người Tàu phát âm ngọng vì có những âm không có trong tiếng nói của họ, nên đã phiên âm sai nhiều danh từ riêng và địa lý như Hoa Thịnh Ðốn (Washington), Anh Cát Lợi (England), Bỉ Lợi Thì (Belgium), nay Phạm Quỳnh "theo đuôi" người nói ngọng thì lại càng đi xa từ gốc (10). Ðó là người có học; còn người bình dân chắc còn ít hiểu tường tận những chữ như "ý thức hệ, thủy quân lục chiến" dù họ nghe đã quen và biết là nói cái gì. Gần đây các vị thuộc Văn Bút hải ngoại chia rẽ "pháo" văn thư và báo rơi qua lại một phần cũng vì không hiểu cùng một trình độ (hoặc không muốn hiểu, hoặc hiểu vầy vậy !) các từ "nội quy, đại hội đồng, xử lý thường vụ, vv". Bản thân chúng tôi gần đây sau khi phổ biến bài Miền Nam Khai Phóng trên báo chí, có người đem bài lên mạng lưới internet khiến bài bị (và được) ... chiếu cố khá mạnh; cái "hic" là nhiều người đã "tấn công" vì hiểu sai chữ "khai-phóng" (cởi mở, open mind) là "tiền phong, đi trước", tựa bài bị dịch ra là "Pionneering South", từ đó có người đội cho tác giả cái mũ "kỳ thị Nam Bắc". Rồi chính chữ quốc ngữ cũng trở thành một trở ngại cho sự phát triễn kiến thức, vì so với chữ Nôm, chữ quốc ngữ không "hồn", thường hay trùng chữ trùng âm và không gợi hình, rất hợp cho tưởng tượng thơ văn nhưng xa dần căn bản ý nghĩa của văn tự dễ đưa đến những diễn văn không nội dung hoặc "ông nói gà bà nói vịt" !

Văn học Việt Nam cổ kim có những nhà văn thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, vv tư tưởng tâm tình rất tổng hợp về tín ngưỡng, về nguồn cảm hứng. Ðến các tác giả miền Nam của thời văn học quốc ngữ tiên phong cũng tỏ ra rất tổng hợp và khai phóng về văn hóa. Văn học đã tổng hợp, khai phóng, người nghiên cứu không thể không có được cái tinh thần chủ động căn bản của nền văn học đối tượng nghiên cứu đó.

Văn học Việt Nam ngày nay phong phú với nhiều thể loại đa dạng nếu so với văn chương cổ điển Hán Nôm thời lịch triều xưa: tiểu thuyết, kịch nói, bút ký, hồi ký, báo chí, vv. Ðây là những hình thức diễn tả văn hóa của Tây phương ta đã du nhập, khởi đầu với các tác giả Thiên Chúa giáo vì họ gần gũi và theo đa số hay vì tiện lợi phổ thông (chẳng hạn vào thế kỷ XVII, giới tu sĩ Công giáo đã viết chữ Nôm nhiều hơn chữ quốc ngữ, như sẽ nói dưới đây): thể nhật ký với Philipphê Bỉnh (Sách Sổ Sang Chép Các Việc, thế kỷ XVIII), thể kịch nói với Tuồng Cha Minh (1881), thể khảo cứu về thể loại văn học với Hồ Ngọc Cẩn tác giả loạt bài Thi Phú Qui Pháp trên Nam Kỳ Ðịa Phận năm 1913 (Việt Hán Văn Khảo của Phan Kế Bính ra đời 17 năm sau), thể ký sự với Trương Vĩnh Ký (Chuyến Ði Bắc Kỳ Năm Ất Hợi, 1876), thể truyện với Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền, 1887), thể hồi ký với Michel Tình (Chơn Cáo Tự Sự, la petite biographie de Michel Tình par lui même, 1910). Ba tác giả sau viết ngoài môi trường giáo hội. Và trái với những gì nhiều người vẫn nghĩ, người Việt đã tham gia tích cực trong việc sáng chế ra chữ quốc ngữ: thầy giảng Bento Thiện đã viết về lịch sử nước ta từ năm 1659 bằng chữ quốc ngữ (11), và cuốn Từ Ðiển Tabert là công trình của các cộng tác viên người Việt như linh mục Philippe Phan Văn Minh, tác giả Phi Năng Thi Tập.

Vì lẽ đó, những gì chúng tôi nêu lên trong bài này, cũng như trong bài Miền Nam Khai Phóng, chỉ nhắm bổ túc những thiếu sót, khiếm khuyết và đưa ra một số đặc thù văn hóa, xã hội chứ không phải để chia rẽ, kỳ thị, vì chúng tôi chủ trương phải thống nhất tiếng Việt. Thống nhất đồng thời phải chấp nhận có những đặc thù địa phương phải tôn trọng. Về tiếng nói cũng như văn học sử. Mặt khác phải có thái độ chấp nhận, sát nhập những tác giả tác phẩm của người Phật giáo, Công giáo, Cao Ðài, Phật giáo Hòa Hảo vào dòng văn hóa chung. Thơ văn đời Trần có nội dung Phật giáo, đời Lê và Nguyễn rất Nho giáo, đã là gia tài văn hóa chung của người Việt, vậy không lý gì thơ văn do người Công giáo viết ra lại bị xếp loại ra ngoài. Nay là thời đa văn hóa, đối thoại, cảm thông, mà ngay từ thời lập quốc, dân tộc ta từng tỏ ra rất bao dung và khai phóng: đã qua rồi cái thời xem cái gì liên hệ đến đạo là không phải dân tộc hay không phải là văn hóa. Vả chăng, Phật, Chúa, Khổng hay Lão, đâu có tín ngưỡng hay tôn giáo nào xuất phát từ Việt Nam; tổ tiên chúng ta đã đón nhận và sống với các văn hóa, tư tưởng, tôn giáo ngoại nhập qua bao thế kỷ, có thời Phật Nho đã là quốc giáo, nhưng khi xong nhiệm vụ vẫn trở về trong tâm linh người Việt, một tâm linh tổng hợp, trong tinh thần khai phóng, bao dung.

Ở trong nước, từ sau thời Ðổi mới (1986), những người nghiên cứu của một nền văn học vẫn nỗi tiếng là "một chiều, phải đạo, minh họa" đã có những cố gắng thay đỗi cách nhìn và cách nghiên cứu. Có thể nói nếu không có chính sách Cởi trói văn hóa, đã không có những công trình nghiên cứu mới mẻ về nền văn học Miền Nam trước thế kỷ XX. Hoàn cảnh mới đã cho phép những phát hiện mới, mà sau nhiều thập niên mù quáng vì chiến tranh, có những cái đã bị biến hủy nhưng cũng có những nhận diện, cảm thông về những cái tưởng đã chết hoặc yếu đi như tôn giáo. Vả lại, tôn giáo đã trở nên nguồn sống của nhiều người, kể cả cán bộ. Cuộc chiến chính thức tàn năm 1975, những thất bại của chuyên chính từ 1975 đến 1986 đưa đến Cởi Trói như một lối thoát dọ dẫm có cái hay là đã tạo môi trường những cố gắng mới với quan điểm mới hơn, dân tộc hơn, tổng hợp hơn. Trong hoàn cảnh đó càng ngày càng có những nghiên cứu trở về với truyền thống dân tộc thật sự, đó là điều nên mừng. Bước đầu khó khăn đã có người đi, dĩ nhiên còn cần nhiều nghiên cứu sâu xa và khách quan hơn nữa !

Nguyễn Vy Khanh

vnguyen@mtq.gouv.qc.ca

 

THAM-KHẢO:

  • Ðỗ Quang Chính. Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659. Sài Gòn: Ra Khơi, 1972. 171 tr.
  • Nguyễn Khắc Xuyên. "Chữ quốc ngữ vào năm 1838" Văn Lang số 4, 12-1992, tr. 117-124.
  • Thanh Lãng. 13 Năm Tranh Luận Văn Học (1932-1945). 3 tập. Tp HCM: NXB Văn Học, 1995. Nhờ bộ sưu tập này mà người đọc có thể tham khảo những bài báo đã đăng trên Hà Nội Báo, IÙch Hữu, Phụ Nữ Diễn Ðàn, Ngày Nay, Tiễu Thuyết Thứ Bảy liên hệ đến những cuộc tranh luận thời đó về văn học, ngữ học và cả chính trị, thời sự.
  • Về Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế Kỷ XVII-XIX). Tài liệu tham khảo. Tp HCM: Trường Ðại học tổng hợp tp HCM. Khoa Ngữ Văn, 1993, 184 tr. Các tác giả: Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Ðỉnh, Thanh Lãng, Võ Long Tê, Nguyễn Nhã, Trần Thanh Ðạm, Phạm Ðình Khiêm, Ðỗ Như Thắng, Cao Xuân Hạo, Hoàng Châu Kỳ.

 

Chú thích:

  1. Tuyển tập Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng, số 1 (9-1996), tr. 13-32. Tạp chí Ði Tới số 30 (1-11-1996), tr. 46-53. Ðặc San Trung Học Mỹ Tho, số 1 (1997).

  2. Quách Thanh Tâm. "Suy nghĩ về các truyện Nôm khuyết danh thế kỷ 18" Tr. 152-161 IN 90 Năm Nghiên Cứu Về Văn Hóa Và Lịch Sử Việt Nam / 90 ans de recherches sur la culture et l'histoire du Việt Nam. Hà Nội: NXB Xã Hội; École Francaise d'Extrême-Orient, 1995.

  3. Phan Khôi. "Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ với thế lực của phụ nữ" Phụ Nữ Tân Văn số 28 (7-11-1929). Trích từ 13NTLVH. Sddd, t. 2, tr. 470.

  4. Nam Phong, số 16, Octobre 1918, tr. 199. Trích lại từ Thanh Lãng "Thử thiết lập hồ sơ về hai người con gái: một con của Phật, một con của Chúa" IN VSBCTGCG Sddd, tr.13.

  5. VSBCTGCG. Sddd, tr 132.

  6. Trích từ 13NTLVH Sddd, t 2, tr 473.

  7. Ngoài ra trong di chúc viết ngày 28-11-1988, linh mục Thanh Lãng đã xin lỗi các Giám mục và linh mục: "Tôi công khai sám hối tất cả với tình anh em linh mục mà tôi vô tình hay cố ý làm mất lòng..." (VSBCTGCG, tr. 182). Hy vọng vào dịp giỗ 10 năm (1998) các công trình hãy còn di cảo của ông sẽ được xuất bản.

  8. VSBCTGCG, Sddd, tr. 6

  9. Xem thêm Vũ Văn Kính. "Vài nét sơ lược về chữ Nôm miền Nam", tr. 328-331 IN 5 Năm Hán Nôm 1991-1995. TpHCM: Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm, 1995.

  10. Trích từ 13NTLVH Sddd, t. 2, tr. 100-118.

  11. Tài liệu viết tay, 12 trang chữ nhỏ, khổ 20X29 cm. Phát hiện cũa linh mục Ðỗ Quang Chính. Sddd.