Bồ Ðào Nha và Công Trình
Sáng Chế Chữ Quốc Ngữ


PHẢI CHĂNG
CẦN VIẾT LẠI LỊCH SỬ?

Roland Jacques

 

Phần Chú thích: từ (1) - (59)

  1. (a): "Dictionnarium annamiticum, lusitanum et latinum", Roma, S.C. de Propaganda Fide, 1651; tái bản bằng bản chụp với phần phiên dịch Việt ngữ hiện hành: "Từ Ðiển Annam- Lusitan- La tinh", TP HCM, NX B Khoa Học Xã Hội, 1991. (b): "Catechismus pro ijs, qui volunt suscipere Baptismum, in octo dies divisus". Phép Giảng Tám Ngày..., Roma, S.C. de Propaganda Fide, (1651); tái bản bằng bản chụp với phần dẫn nhập của Nguyễn Khắc Xuyên, phiên dịch Việt ngữ hiện hành do André Marillier và Pháp ngữ do Henri Chappoulie, (TP HCM), Tủ Sách Ðại Kết, 1993.

  2. Jean Louis Taberd: "Dictionnarium Annamitico- Latinum", Serampore (Ấn Ðộ), 1938.

  3. Sắc luật đưa chữ quốc ngữ vào các kỳ thi do toàn quyền Paul Doumer ký từ năm 1898; nhưng được áp dụng dứt khoát vào năm 1909. Năm 1917, một chỉ dụ của triều đình bãi bỏ lối giáo dục truyền thống và thay bằng một nền giáo dục dựa vào chữ quốc ngữ và Pháp ngữ. Xem Nguyễn Thị Chân Quỳnh, "Concours de mandarins", trong "La Jaune et la Rouge" (Paris, Ecole Polytechnique), số 525, 5.1997 (tr.31- 37), tr.36-37.

  4. Georges Taboulet, "La geste francaise en Indochine: Histoire par les textes de la pre'sence de la France en Indochine des origines à 1914", hai tập, Paris, Andrien Maisonneuve,1955-1956, tập I, quyển I, chương I, tr. 9-22.

  5. Cha của Rhodes người Marranne Aragon và mẹ người Ý; trong gia đình có lẽ Rhodes đã sử dụng tiếng Tây Ban Nha, Ý và ngay cả tiếng Do Thái (!)... Về các xác quyết bấp bênh này, xem lời minh xác lại của Michel Barnouin : "gốc gác cha mẹ của Alexandre de Rhodes người Vaucluse (1593-1660) trong "Mémoires de l' Académie de Vaucluse" (Avignon), 8e se'rie, 4, 1995, tr.9-40, và thư mục đã dẫn.

  6. Trong thời gian chúng tôi viết bài này, xác quyết đó một lần nữa được Francois Rideau lặp lại, "Mes rapports avec la langue vietnamienne", trong "La jaune et la rouge" (Paris, Ecole Polytechnique), số 525, 5,1997, tr. 25-30: tr.27.

  7. Chúng ta sẽ trở lại trong đoạn sau về việc có một số tu sĩ dòng Phanxicô người Tây Ban Nha bị lạc vào bờ biển của Việt Nam từ 1583-1584, nhưng không lưu lại dấu vết nào và cũng không hề học được những khái niệm về ngôn ngữ địa phương.

  8. André Georges Haudricourt, "Origine des particularite's de l'alphabet vietnamien", trong tập san "Dân Việt Nam" (Trường Viễn Ðông Bác Cổ (EFEO) 3, 1949, tr. 61-68. Ngoài ra, Haudricourt là tác giả các bài biên khảo về tiêng Việt và lịch sử tiếng này; trong đó có bài "Les consonnes pre'glottalisées en bre`ves du vietnamien", trong "Bulletin de la Société de Linguistique de Paris 46", 1950, tr. 172-182; "Les voyelles bre`ves du vietnamien", tddd.48, 1952, tr. 90-93; "La place du vietnamien dans les langues austroasiatiques", tddd 49, 1953, tr. 122-128; "De l'origine des tons du vietnamien", trong "Journal Asiatique" 242, 1954, tr. 69 83; v.v...

  9. Alexandre de Rhodes, "Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres Royaumes de l' Orient", Paris, Se'bastien Mabre Cramoisy et Gabriel Cramoisy, 1653; tái bản bằng bản chụp với phần dịch và chuyển dịch Việt Ngữ của Hồng Nhuệ (bút hiệu của Nguyễn Khắc Xuyên), TP HCM, Tủ Sách Ðại Kếtm 1994, phần 3, tr.78 79.

  10. Xem John de Francis, "Colonialism and Language Policy", La Haye, 1997, Cũng xem chú thích 71.

  11. Vào năm 1941, tấm bia được dựng trong một đền thờ nhỏ trên bờ hồ Hoàn Kiếm, trước đền Ngọc Sơn. Nhà thờ nhỏ đó bị đập phá để có chỗ xây một đền đài cách mạng. Tấm bia bấy giờ do một tư nhân đem về nhà sử dụng tuỳ nghị Năm 1995, người ta không thể đặt lại chỗ cũ, nên đã chọn một chỗ xứng đáng đó là Thư viện Quốc Gia, cách đền thờ cũ không xa.

  12. Xem "Let's do Justice to Alxandre de Rhodes", trong "Vietnam Social Sciences" (Hà Nội) 40, 2/1994, tr. 88-89, trong một bài viết của Minh Hiền đăng trên tuần san "Lao Ðộng" (Hà Nội) ngày 21.11.1993. Cũng xem cuộc hội thảo khoa học tổ chức về Alexandre de Rhodes tại Hà Nội, ngày 22.12.1995 do Bộ Văn Hoá và Trung Tâm Quốc Gia Khoa Học Xã Hội Nhân Văn (tài liệu sẽ xuất bản). Trong cuộc hội thảo này, phó thủ tướng Nguyễn Khánh, một trong những nhân vật cao cấp của nhà nước đã chính thức lên tiếng về đường lối muốn phục hồi danh dự cho cha Rhodes. Ðây là nguyên văn lời nói đó:" Alxandre de Rhodes, nhà hoạt động văn hoá cống hiến cho sự phát triển quốc ngữ và văn hoá Việt Nam"- trong "Xưa và Nay" (Hà Nội), (cơ quan ngôn luận của Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam), 1/1995, tr. 19-20.

  13. Chúng tôi nêu lên ý kiến này qua hai tác phẩm có giá trị khoa học cao, trong số các tài liệu xuất bản gần đây: (1) Pierre Richard Fe'ray, "Le Vietnam", Paris P.U.F., 1984, về những ảnh hưởng văn hoá Âu Châu vào thế kỷ 17, trang 18: "Trong lúc nhà Trịnh (Ðàng Ngoài) kêu cứu viện trợ của người Hoà Lan (...), thì nhà Nguyễn lại cầu cứu người Bồ Ðào Nha, rồi đến người Pháp, và không ngại tiếp rước các nhà truyền giáo dòng Tên đến độ cha Alexandre de Rhodes, từ năm 1650 đến 1660, đã có ý kiến chuyển chữ viết bằng vần La tinh. Chữ quốc ngữ như thế được khai sinh." (2) Joseph Metzler, "Die Synoden in Indochina: 1625-1934", (các hội nghị giám mục ở Ðông Dương 1624-1934), Paderborn/Munich/Vienne/Zurich, Ferdinand Schoningh, 1984. Nối tiếp phần lớn các sử gia đi trước về các cuộc truyền giáo của Công giáo, tác giả gán cho Rhodes phần chính yếu của nỗ lực truyền giáo này; sau đó tác giả nói rõ ở trang 7: "Qua những công trình nghiên cứu khoa học của ông, (Rhodes) trở thành người khai sinh ra chữ viết của Việt Nam và chuyển qua mẫu tự La tinh, được sử dụng đến hôm nay."

  14. Về vấn đề bảo trợ của vua Bồ Ðào Nha đối với công cuộc truyền giáo Ðông Phương, đặc biệt nên đọc: Antonip DaSil Va Rego, "Le Patronage portugais de l' Orient, apercu historique!", Lisbonne, Agênicia Geral do Ultramar, 1957; Alelhelm JANN, "Die katholischen Missionen in Indien, China und Japan: Ihre Organisation und das portugiesche Patronat, vom 15 bis ins 18 Jahrhundert" (Cuộc truyền giáo Công giáo tại Ấn Ðộ, Trung Hoa và Nhật Bản. Công việc tổ chức và sự bảo trợ của Bồ Ðào Nha từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII), Paderborn, Ferdinand Schoningh, 1915.

  15. Trong hậu bán thế kỷ Thứ XVI, Tây Ban Nha dần hồi đến và định cư lâu dài tại Phi Luật Tân, Nhưng những mưu toan của người Tây Ban Nha nhằm nối một đầu cầu với lục địa Á Châu, đặc biệt tại Ðông Dương, sẽ không có kết quả Nào, Về các nỗ lực này, ngoài các tài liệu khác nên đọc L.P. Briggs, "Missionnaires Portugais et Espagnols au Cambodge, 1555- 1603" trong "Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises" 25, 1950; Ạ Gallego, "Espan~aen Indochina, Expediciones religioso-militaires", trong "Espan~a missionera, 7", 1951, tr. 298-310; Bennoo Biermannm "Die Missionsversuche der Dominikaner in Kambodscha" (Những nỗ lực truyền giáo của các tu sĩ dòng Ða Minh tại Căm- Bốt); trong "Zeitschrift fu:r Missionswissenschaft" (Tập san những khoa học truyền giáo và tôn giáo) (Mu:nster) 23, 1933, tr. 108-132.

  16. Thời điểm Afonso de Albuquerque chiếm Malacca. Xem Genevie`re Bouchon, "Albuquerque: Le lion des mes d' Asie", Paris, Desjonque`res, 1992. Việc chiếm Malacca một mặt giúp người Bồ Ðào Nha mở rộng con đường hàng hải đến các đảo sản xuất gia vị ở vùng biển Nam Thái Bình Dương, mặt khác mở đường đến Trung Hoa và Nhật Bản.

  17. Nên đọc Pierre Yves Manguin, "Les Portugais sur les côtes du Vietnam et du Campa, Étude sur les routes maritimes et les relations commerciales, d'apre`s les sources portugaises des XVI e, XVII e, XVIII e siècles", Paris, EFEO, 1972; Roderich PTAK (dẹ), "Portuguese Asia: Aspects in History and Economic History (16th- 17 th centuries), Stuttgart, F. Steiner, 1987; Anthony REID, "Southeast Asia in the Age of Commerce (1450-1680)", vol. I, "The Lands below the Winds", New Haven et Londres, Yale University Press, 1988. Ðáng lưu ý là trong "Década XIII", nói đến thời kỳ từ 1612 đến 1617 vào lúc các tu sĩ Dòng Tên mở đường truyền giáo đến Việt Nam, nhà chép sử biên niên chính thức người Bồ Ðào Nha António Bocarro chỉ nói thoáng một lần về xứ này; và cũng chỉ nói gián tiếp, nhân nói đến nước Xiêm, như là miền sản xuất ra lụa, do người Anh và Hoà Lan du nhập vào xứ này. Xem "Década XIII da Historia da India composta por Antonio Bocarro chronista d' aquelle estadto (...)", xb. do Rodrigo José De Lima Felner, 2 tập, Lisbonne, Academia Real das Sciencias, 1876; tập 1, tr. 530.

  18. Cha Dòng Tên Francisco de Jasu y Javier (Xavier), 150601552, gốc người Navare, đã thực hiện công cuộc truyền giáo của mình tại Á Châu với tư cách vừa là sứ thần của Giáo hoàng vừa là khâm sứ của vua Bồ Ðào Nhạ Xem Georg Schurhammer, "Franz Xaver, Sein Leben und seine Zeit", 3 quyển, Frigourg - en- Brisgau, Herder, 1955-1971: Francis Xavier: His life, his time, 4 tập, Roma, Institutum Historiscum Socielatis Iesu, 1973- 1982. Tiếng Pháp có: Alexandre Brou, "S. Francois - Xavier", 2 tập, Paris, Beauchesne, 1922; hoặc gần đây hơn: James Brodrick, "Saint Francois Xavier (1506-1552)", Paris, Spes, (1954), bản dịch của "Saint Francois Xavier", Londres, Burns Oates, (1952). Về quy chế pháp lý của Francisco Xavier, xem Joseph Wicki, "Der hl. Franz Xaver als Nuntius Apostolicus", trong "Studia Missionalia 3", 1947, tr. 107-130.

  19. Kế hoạch truyền giáo này có lúc người ta cho là do Alexandro Valignano, người tổ chức các công cuộc truyền giáo tại Viễn Ðông (sinh năm 1537 tại Chieti, Vaignano làm Tuần Thị các vùng truyền giáo Dòng Tên ở Ðông Phương từ năm 1573 và từ năm 1583 làm Giám Tỉnh của tỉnh dòng Ấn Ðộ, bấy giờ gồm cả toàn khối Viễn Ðông. Ngài chết tại Macao năm 1606). Kỳ thực quan điểm này phát xuất từ chính Francisco Xavier. Linh mục Dòng Tên người Navare này từng có kinh nghiệm về ảnh hưởng của Trung Hoa trên Nhật Bản và những khó khăn mà người Nhật gặp phải khi bỏ những đạo lý đến từ Trung Hoa để theo Ki-tô giáọ Trong một bức thư luân lưu ngày 21-01-1552, ngài viết :" Tôi tin là trong năm 1552 này, tôi sẽ đi gặp vua Trung Hoa, đây đúng là một xứ mà luật của Ðức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, có thể phát triển lớn mạnh; và nếu ở đấy người ta tiếp nhận luật Chúa thì việc đó sẽ giúp cho Nhật Bản mất đi lòng tin cậy vào những giáo thuyết tôn giáo mà Nhật Bản đang tin." Cũng vào lúc này, Ngài viết thư chi Inhaxio de Loyola như sau: "Nếu người Nhật biết rằng người Trung Hoa nghe theo luật Thiên Chúa, thì chắc chắn họ sẽ mất niềm tin vào những điều họ vẫn giữ trong các giáo thuyết của họ." (Epistolae S. Francisci Xaverti aliaque eius scripa (...)", Georg Schurhammer et Joseph Wicki, edt., t. II (1 549-1552), Roma, Monumenta historica Societatis Jesu, 1945; tr. 227 và tr.291-292).

    Gần ba mươi năm sau, mặc dù gặp phải những thất bại và ngỡ ngàng ở Trung Hoa, quan điểm này vẫn xem là có giá trị. Thí dụ, như trong bức thư của tu sĩ dòng Francisco Pedro de A'lfaro gửi cho bạn cùng dòng là Agustín de Tordesillas, viết từ Macao ngày 20.11.1579, vị này viết "Cha Coutinho, bề trên các cha Dòng Tên của Macao có nói rằng Ðông Dương không truyền giáo được ngay bây giờ và cũng không quan trọng như chúng ta tưởng (...). Ngài nhân danh Chúa mà đưa ra ý kiến đó, cũng như ý kiến của Ðức Cha Belchior Carnerio, Giám quản của địa phận Macao, người từng rất muốn người ta trở lại, đó là trước hết phải tìm cách giảng đạo cho Ðại Vương Quốc (Trung Hoa) rồi sau đó mọi sự sẽ dễ dàng ..." ("Sinica Franciscana", tập 2: "Relationes et epistolas Fratrum Minorum soeculi XVI et XVII", Anastasius Van Den Wyngaert, ed., Quaracchi- Florence, Collegiom S. Bonaventure, 1933, tr. 52 chú thích I). Quan điểm của Valignano có điểm khác, nhưng cũng đưa đến hậu quả thực tiễn như thế liên hệ đến Việt Nam.Theo Ngài, mọi nỗ lực hết sức mình để chu toàn công việc truyền giáo ở đây, dẫu phải bỏ qua các vùng truyền giáo khác." (Sumario delas cosas que pertenecen a la Provincia de Jappón y al govierno della", chương 6; xem phần dịch Pháp ngữ của J. Be'sineau, "Les Je'suites au Japon: relation missionnaire (1583), Paris, Desclée De Brouwer (1990), tr. 113. Khi Nhật Bản gặp phải các cuộc bắt bớ, thì nơi thay thế duy nhất mà công cuộc truyền giáo Hội dòng nhắm đến đó là Trung Hoa, và ngài gửi Ruggieri và Ricci đến đâỵ Trong ý ngài, các dòng khác tự do đi các vùng đất mà các cha Dòng Tên không có mặt. (Tldd. chương 9, tr.133). Nhưng các tu sĩ dòng Augustino, Ða Minh và Francisco lại cũng thích chọn Trung Hoa và Nhật Bản...

  20. Thư đề ngày 29.11.1555 viết từ Malacca, gửi đến viện trưởng Colle`ge St. Paul ở Goa: bản chú dịch Pháp ngữ của Pierre Yves Manguin, "Les Portugais sur les côtes du Viet Nam et du Campa" (trích chú thích 17), tr. 48-49. Từ ngữ "padrão" tiếng Bồ Ðào Nha có nghĩa là một bia đá mang huy hiệu Bồ Ðào Nha, đánh dấu việc chiếm hữu một các tượng trưng nhân danh triều đình Bồ Ðào Nha. Việc chọn lựa đặt padrão trên đảo Cù Lao Chàm thay vì trên đất liền có thể để nhấn mạnh đến khía cạnh thuần tượng trưng của sự việc. Năm 1524, người Bồ Ðào Nha đã đau đớn ý thức rằng không có vấn đề nhường lại quyền lãnh chúa thực sự của mình cho bất kỳ ai trong vùng biển Trung Hoa, ngược lại việc họ đã làm trong vùng Ấn Ðộ Dương đến Malacca. Xem Henri Cordier, "Người Bồ Ðào Nha đến Trung Hoa", trong "T'oung Pao", 12, 1911, tr. 485-543; cũng như trong phần dẫn nhập của Charles Ralph Boxer, ed. nơi cuốn "South China in the 16 th century, Being the narratives of Galeote Pereia, Fr. Gaspar da Cruz, Fr. Martin de Rada, 1550-1575, Londres, Hakluyt Society, 1953; Nendeln/Liechtenstein, Kraus Reprints, 1967.

  21. Xem "Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục" (viết vào năm 1859 dưới sự hướng dẫn của Phan Thanh Giản, xb. năm 1884): phần chính biên, cuốn 33, bản khắc 6b; chính bản bằng hán văn in lại trong "Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises ", phụ bản cuốn 45/2-3, tr. 102. Bản văn nói đến một người ngoại quốc (dương nhân), đã âm thầm đi vào các vùng lưu vực sông Hồng, Sự kiện này được ghi ở phần chú thích, dựa vào dã lịch, nhưng không nói đến tài liệu nào rõ ràng cả. Vì quốc tịch không nói rõ, nhưng dường như đây hẳn là một người Bồ Ðào Nha.

  22. Gaspar da Cruz, gốc người Bồ Ðào Nha, là vị truyền giáo dòng Ða Minh đầu tiên tại Viễn Ðông. Xem cuốn sách của ông: "Tractado em que se cotam muito por exteso as cousas da China, co suas particularidades, & assi do reyno dormuz. Copuesto por el R. padre frey Gaspar da Cruz da orde de sam Domingos (...) (E'vora, André de Burgos, 1569): tr. 62 trong bản dịch của Charles Ralph Boxer, "South China in the 16th century, Being the narratives of Galeote Pereia, Fr. Gaspar da Cruz, Fr. Martin de Rada, 1550-1575," Londres, Hakluyt Society, 1953. Xác quyết của một vài sử gia về các công cuộc truyền giáo liên quan đến một hoạt động truyền giáo của G. da Cruz tại Việt Nam không có căn cứ.

  23. Xem "Relación ine'dita de Fray Diego de San José sobre la misión franciscana a Cochinchina y su paso por China "(1583) trong "Archivo Iberô Americano" (Madrid) 53,1993,tr. 459-487; cũng như phần dẫn nhập của J. Ignacio Tellchea Idigoras: "Expedición franciscana a Cochinchina y China", ibid., tr. 449-458.

  24. Xem Marcelo de Ribadeneyra, "Historia de las Islas del Archipielago, y reinos de la Gran China, Tartaria, Cochichina, Malaca, Sian, Camboxa y Japon, y de lo succedidi en ellas a los religiosos Descalzos (...), Barcelone, Gabriel Graells y Giraldo Dotil, 1601: chương 16. Theo bản văn xuất bản có phần phê bình của Juan R. De Legi'sma, Madrid, Editorial Cato'lica, 1947, với các chú thích và thư mục đầy đủ được trích dẫn.

  25. Xem "Relacão de como os Religiosos do Serafico São Francisco Capuchos que forão para o Reyno de Cochin- china, com tensão de pregar nelle o Santo Evangelho; e do que Ihes succedeo estando là, e de como se vieram": Lisbonne, Biblioteca Nacional, codex 11098, fol, 347-349. Vua Philippe II, từ năm 1580 trị vì hai xứ Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha, đã từng yêu cầu người Tây Ban Nha nhường chỗ cho người Bồ Ðào Nha trên lục địa Á Châu.

  26. Xem "Relacão de como os Religiozos do glorioz Dor. S. Agost forão ao Reyno da Cochinchina co tensao de lá pregare o Sto Evangp, e de como, e porque vierao de là", Lisbonne, Arquivo Histo'risco Ultramarino: codex 1659, fol. 275-276. Cũng xem Teo'filo Aparicio López, "La Orden de San Agustin en la India (1572-1622), Lisbonne, Centro de Estudios Histo'ricos Ultramarimos, không đề niên kỷ (bản xb trích lại của Studia 40, 6.1974- 12. 1978), tr. 322-327.

  27. Xem "L' Itinera'rio de Sevastiao Manrique (1639), Luis Da Silveira, xb. Lisbonne, 1946, chương 45: "Vì có nhiều cuộc di dân trong vương quốc này, và vì Dòng của tôi không thể nào đương đầu được với những nhu cầu của công cuộc truyền giáo này bởi lẽ cần dự trù nhiều tốn kém. Dòng thực sự có rất ít của cải trong các vùng đó, nên không duy trì được các công cuộc truyền giáo ấy và cũng sẽ không thực hiện được trừ trường hợp phải chi dụng rất nhiều; và đấy cũng là kinh nghiệm của các linh mục Dòng Tên trước đây: Nếu cứ phải liên tục lo tặng quà và lễ vật khác nữa, không những cho vua và các ông hoàng mà còn cho các vị quan cao cấp; thì e cũng cần phải cứ tiếp tục như đã từng làm trong nhiều trường hợp."

  28. Có nhiều nghiên cứu đã phổ biến về đề tài này, trongddó có Joseph Jennes, "A history of the Catholic Church in Japan from its beginnings to the early Meiji Erạ A short handbook", tái bản Tokyo, Orient Institute for Religious Research, 1973; Kiichi Matsuda. "The Relations between Portugal and Japan", Lisbonne, Centro de Estudos Histo'riscos Ultramarimos, 1965; Charles Ralph Boxer, "The Christian century in Japan 1549-1560", Londres, Cambridge University Press/ Berkeley, University of California Press, 1951; tái bản: Londres, Carcanet, 1993. Tiếng Pháp có: Léon Pages, "Histoire de la religion chrétienne au Japon depuis 1598 jusqú à 1651", 2 tập, Paris 1869-1870.

  29. Các nhà truyền giáo cũng dùng thành ngữ "Ðàng Trong" và "Ðàng Ngoài". Nhưng chúng tôi sẽ dùng lối nói mà người Bồ Ðào Nha dùng. Sau này chính quyền thực dân Pháp chia Việt Nam làm ba miền Bắc phần (Tonkin), Trung phần (Annam) và Nam phần (Cochinchine). Ở đây chúng ta không nhắc đến lối phân chia đó.

  30. Cần lưu ý là bên kia eo biển Malacca (tức vùng Thái Bình Dương), người Bồ Ðào Nha không thực hiện cũng như không từng chủ trương chiếm đất. Trong trường hợp ta nêu lên ở đây, chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) đã mời họ đến lưu ngụ tại cửa sông Hàn, tức thành phố Ðà Naûng sau nàỵ Nhưng các tác giả của các dự án này có hai mẫu mực định cư khác nhau trong đầu họ: - Phía người Việt Nam, người ta chủ trương lấy mẫu Hoài Phố - Hội An. Ðây là hai mẫu định cư vào thời đó của một nhóm người Trung Hoạ Mỗi cộng đồng tự tổ chức cuộc sống theo tập quán và luật lệ riêng của mình. "Người thủ lãnh" có quyền trên cộng đồng những người đồng hương của mình nhưng luôn thuộc quyền của quan địa phương (quan Việt Nam). Các cộng đồng định cư này buôn bán, trả thuế (cao) cho chính quyền Việt Nam. Hệ thống đó hợp với mọi ngườị Do vậy mà chúa Nguyễn tìm cách định cư một cộng đồng người Bồ Ðào Nha tại chỗ này theo cùng mẫu tổ chức như thế. Việc làm đó còn cho phép chúa Nguyễn hy vọng được người Bồ Ðào Nha giúp phòng thủ, đặc biệt để đối đầu với Ðàng Ngoài, kể cả với người Tây Ban Nha, Hoà Lan... - Phía người Bồ Ðào Nha thì có mẫu của Macaọ Nhiều sử gia không hiểu về thực trạng của Macao vào các thế kỷ 16 và 17; gần đây người ta đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về thực trạng này, kể cả trong giới các sử gia Trung Hoa. Mọi người đều chân nhận rằng bấy giờ Macao là vùng đất của Trung Hoa chứ không phải của Bồ Ðào Nha, và người Bồ Ðào Nha phải trả tiền rất nhiều để thuê lại đất này, chưa kể tiền thuế cập bến và quan thuế. Mọi sinh hoạt của người Bồ Ðào Nha đều đặt dưới quyền giám sát của một vị quan đặc biệt gửi đến Macao, do các giới chức của Quảng Ðông. Vương quốc Bồ Ðào Nha chỉ có những đại diện như sau:

    a/ từ 1557 một "thủ lãnh đặc trách đi lại nước Nhật Bản", vị này có thẩm quyền chỉ trong một năm, trên các cuộc đi lại bằng đường biển chứ không có quyền trên dân chúng; b/ từ 1576 giám mục (hoặc thường là một giám quản) có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến sinh hoạt giáo hội. c/ và từ 1580 một thẩm pán hoà giải, có thẩm quyền tài phán đối với người Bồ Ðào Nha mà thôi. Vào năm 1583, quyền hành địa phương của cộng đồng người Bồ Ðào Nha (l'origarchie portugaise) đã có "nghị viện", với thẩm quyền trên các vấn đề dân sự của người Bồ Ðào Nhạ Nhưng các quan lại Trung Hoa luôn canh chừng nhằm tránh tình trạng lấn quyền (chẳng hạn người Bồ Ðào Nha có khuynh hướng đặt người Ki-tô hữu Trung Hoa dưới khuôn khổ các luật lệ riêng của mình.) Ở đây cũng như ở Hội An, hệ thống tổ chức như thế có lợi cho mọi người, vì người Bồ Ðào Nha giàu có nhanh nhờ buôn bán với Nhật Bản mà không trả thuế cho triều đình của nước mình. Macao chỉ có vị thống đốc (quân sự) với một đội quân ít ỏi, kể từ năm 1623, do cuộc tấn công của người Hoà Lan năm 1622, mà dân cư tại đây đã đẩy lui một cách vất vả. Nhưng vào thời kỳ chúng ta nêu lên đây, khía cạnh đó chưa hề được lưu ý. Mãi đến thế kỷ 19 thì Bồ Ðào Nha mới đơn phương tuyên bố Macao "là vùng đất của người Bồ Ðào Nhạ"

    Vào thời kỳ chúng ta đang nói ở Ðây, việc giao thương buôn bán có lợi giữa Macao và Nhật Bản trở Thành khó khăn, do quyết định dần dần bế quang toả cảng của Nhật đối với người Bồ Ðào Nhạ Một số người cho rằng Việt Nam có thể thay thế Nhật Bản trong việc giao thương. Nhưng trường hợp này lại cho thấy Ma Cao không thuận lợi lắm về mặt địa lý. Do đó, mà các dự án di cư- định cư của người Bồ Ðào Nha tại Việt Nam phát sinh; người ta mong rằng chúa Nguyễn sẽ tạo những điều kiện thuận lợi hơn quan chức Trung Hoa.

  31. Xem thư của nhà vua gửi phó vương Jerónimo de Azevedo ngày 6 tháng 2 năm 1616: Lisbonne, Archives Nationales- Torre do Tombo, "Livros das Moncoes" số 9, fol. 40, doc.636; xb trong Raymundo Antonio DE BULHÃO PATO (dir), "Documentos remettidos da India ou Livros das Moncoes", tập III, Lisbonne, Academia Real das Sciencias, 1888, tr.381-382- Thư của phó vương Jerónimo de Azevedo gửi nhà vua tháng 3 năm 1617: Goa, Archives Nationales, "Registo das cartas de D. Jerónimo de Azevedo" số 17, fol. 261v, bản văn trong "Boletin da Filmoteca Ultramarina Portuguesa", (BUFUP)4, 1954, tr. 826 và 7, 1956, tr. 823- Thư của nhà vua gửi phó vương João Coutinho ngày 23 tháng 1 năm 1618: Lisbonne, Archives Nationales, "Livros das Moncoes" số 11, fol. 53, doc. 943, xb.tldd, tập IV, Lisbonne, Academia Real das Sciencias, 1893, trang 280- Thư của nhà vua gửi phó vương João Coutinho ngày 5 tháng 3 năm 1620: Lisbonne, Archives Nationales, "Livros das Moncoes" số 13, fol. 271:xb do P.-Y Manguin, "Le Portugais sur les côtes du Viêt Nam" (xem chú thích 17) trang 308.

  32. Các thư của phó vương João Coutinho gửi nhà vua ngày 7 tháng 2 năm 1619 và ngày 8 tháng 2 năm 1619: Lisbonne, Archives Nationales, "Livro das Mocoes", số 11, fol.54, doc. 944 và fol 184, doc 992; xb trong R.Ạ De BULHÃO PATO, sd. tập IV, trang 281 và 382, Còn về thái độ của phó vương Francisco da Gama, xem Manuel Teixeira, "A diocese portuguesa de Malaca" ("Macau e a sua dioces", tập 4) Macau xb do Boeltin Eclesia'stico, 1957, tr. 242.

  33. Pierre Yves Manguin, "Les Portugais sur les côtes du Viêt Nam et du Campa" (xem chú thích 17)

  34. George Bryan Souza, "The Survival of Empire, Portuguese Trade and Society in China and the South China Sea, 1630-1754", Cambridge (Grande- Bretagna), 1986.

  35. Nên xem Manuel Teixeia, "Relacoes comerciais de Macau com o Viêt Nam" (Macau e a sua diocese", quyển 15), Macao, Imprensa Nacional, 1977; và các quyển khác trong bộ "Macau e sua diocese" (16 quyển, Macao, một số nhà xb. 1940-1979).

  36. Về địa phận Malacca (thành lập năm 1558), xem thư của Francisco Vieira à Mutio Vitelleschi, viết từ Macao ngày 26.11.1616: Romạ Tài liệu lưu trữ của Dòng Tên- "ARSI", bộ tập JAP-SIN, quyển 17, trang 21-22 và 22-28; ngoài ra xem các bản báo cáo dịp viếng "ad limina" của địa phận Malacca năm 1624: Roma Archivio Segreto Vaticano, kho tài liệu "S.C. Concilio- Visite ad limina" hộp 481, không dẫn chiếu.

    Về địa phận Macao (Thành lập năm 1576), xem bản gốc bức thư của phó vương Jerónimo de Azevedo gửi nhà vua (1616-1617 ?): Goa, Thư khố quốc gia, "Registo das cartas de D. Jerónimo de Azevedo" số 12, tr 28-29; bản văn trong BFUP 4, 1955, trang 724, dẫn chiếu 7, 1956, trang 859.

  37. Xem thư của G João Rodrigues Giram gửi Nuno Mascarenhas, từ Macao 26.2.1615: ARSI< JAP-SIN, quyển 18-II, trang 169-171 và 172-173; thư của Valentin de Carvalho gửi Nuno Mascarenhas, từ Macao 9.2.1615, tldd, trang 174-175; v.v... Cũng xem Nicolao Da Costa "Annua do Collegio de Macao desde Janeiro de 615 ate o outro de 616", đề ngày 17.1.1616 từ Macao: ARSI, JAP-SIN, quyển 14, trang 1-9 (trang 4v-5).

  38. Xem Giuliano Baldinotti, "Viagem de Tunkim" và "Breve relacãp" (1626): Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, "Jesuítas na A'sia", quyển 49/V/31, trang 15-24._ Pero Marques "Annua de Tunkim an~o 1627" đề ngày 25 .7.1627: ARSI, JAP-SIN quyển 88, trang 11-18v.- Vô danh "Missam que se fes do Collegio de Macao ao Reino de Tonquim cabeca da Cochy-china no anno de 1627" tldd. quyển 72, trang 88-127.- Alexandre De Rhodes "Initium missionos Tunquinensis anno 1627", Lisbonne, Bibliotheca da Ajuda, "Jesuíta na A'sia", quyển 49/V/31, trang 24-26v và quyển 49/V/6, trang 443v-446v. Thư của João Rodrigues Girão gửi Antonio Freir, từ Macao 25.11.1627: Lisbonne, Biblioteca Nacional, "Manuscritos", hộp 30, số 210.

  39. Từ năm 1580, các vua Tây Ban Nha đồng thời cũng là vua xứ Bồ Ðào Nhạ Năm 1640, Bồ Ðào Nha lật đổ vương quyền Tây Ban Nha và đưa một dòng họ thật sự Bồ Ðào Nha lên ngôi: Quận công Bragance. Nhưng trong 30 năm ấy, Toà Thánh xem nhà vua mới này là bất hợp pháp và hỗ trợ những đòi hỏi của vua Tây Ban Nha. Xem phần dưới.

  40. Về sự kiện và hậu quả của khủng hoảng giữa Bồ Ðào Nha phục hưng và Toà Thánh cũng như việc thiết lập các đại diện tông toà cho Việt Nam, xem Henri Chapoule, "Roma et les Missions d'Indochine au XVIIe siècle", tập I, "Clergé portugais et e've^ques francais dans les royaumes d'Annam et de Siam", Paris, Bloud et Gay, 1943; tập I, "La constance romaine et l' établissement de'finitif des vicaires apostoliques dans les royaumes d' Annam et de Siam", Paris, Bloud et Gay, 1948; và Antonio Da Silva Rego, "Licões de Missionologia", Lisbonne, Junta de Investigacões do Ultramar, Centro de Estudos Politicos e Sociais, 1961 (xem chương: "Desentendimento entre o Padroado e a Propaganda na Cochinchina, no Tonquim e Sião, 1658-1696", tr. 173-179.)

  41. Xem các danh sách và thư mục do Manuel Teixeira xb. trong tác phẩm của ông "As Missões Portuguesas no Vietnam (Macau e a sua diocese" quyển 14, Macao Inprensa Nacional, 1977), tr. 279-491; và trong Josef Franz Schutte (xb). "Textus Catalogorum alioeque de personis domibusque S.J. in Japonia informationes et relationes 1549-1654" (Monumenta Historica laponie I), Roma, Institutum Historicum Societatis Iesu, 1975, tr. 611-1120.

  42. Người đương thời còn nói đến 300.000 Ki tô hữu: xem phúc trình của Alexandre de Rhodes gửi "Propaganda Fide": Rome, văn khố của Propaganda Fide, tập tài liệu SOGCG, quyển 193, trang 462. Nhưng con số đó còn tranh cãi, những lượng định ngày nay ghi nhận độ 200.000.

  43. Chẳng hạn xem các liệt kê viết tay của các cộng đoàn ở Ðàng Ngoài trong các văn khố Dòng Tên tại Macao: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, "Jesuítas na A'sia", quyển 49/V/31, trang 44-46 (vào khoảng năm 1640). tldd quyể n 49/V/33, trang 146-148v (1676) và 379-382 (1678) ...

  44. Xem Gaspar do Amaral: "Relacão dos catequistas da Christandade de Tunquim e seu modo de proceder pera o Pe Manoel diaz Vizitador de Jappaõ e China" (1638): ARSI JAP-SIN.88, tr. 348-354v; cũng xem Madrid, Real Academía de la Histora, "Archivo de Japón", leg 21 bis, fasc.16, trang 31 37; Lisbonne, Biblioteca da Ajuda "Jesuítas na A'sia", quyển 49/V/31, tr. 383-407. Ngoài ra còn xem: Giovanni Filippo De Marini, "Delle missioni dé Padri della Compagnia di Giesv nella Prouincia del Giappone, eparticolarmente di quella di Tumkino, Roma, Nicoló Angelo Tinassi, 1663, tr. 183-188.

  45. Xem "Processo informatorio" điều tra phong thánh cho Andre, thực hiện tại Macao từ tháng 12/1644 đến tháng 2/1645, và được chính quyền tại thị xã Macao chứng thực: Roma, Archivo Segreto Vaticano, kho Riti, số 479. Bả n tường trình viết tay của Alexandre de Rhodes: "Relão do glorioso Martino Andre Cathequista Protomartir de Cochinchina, alanceado, e degolado em Cachão aos 26 de Julho de 1644, tendo de idade dezanove annos": ARSI JAP-SIN. 71, tr.261-265. Xem "Relacão da morte do catequista André,, proto-ma'rtir da Cochinchina" (Bản văn của Alexandre de Rhodes, d.ch lại tiếp ý do Miguel Serras Pereira, trong "Boletim Eclesiático da Diocese de Macau 76, 1978, tr. 237-262). Cũng xem Manuel Teixeira, "André, de Phu Yen, o primeiro ma'rtir do Vietnão", trong Boletim Eclesia'stico da Diocese de Macau, 57, 1959, tr. 788-793; id. "Andrew, the proto martyr of Vietnam", trong "A precious treasure in Coloane: The relics of Japane se and Vietnamese martyrs", xb lần thứ ba, macao, Department of Tourism, 1982, tr.19-27. Bản tường trình viết tay bằng tiếng Bồ Ðào Nha được phỏng lại trong Pháp ngữ: "la glorieuse mort d' André Catéchiste de la Cochinchine, qui a le premier versé son sang pour la querellede Iesus Christ, en cette nouvelle Eglise. Par le P. Alexandre de Rhodes de la Compagnie de Jesus qui a toujours été pre'sent à toute cette histoire", Paris, Se'bastien Cramoisy, 1653.

    Cũng cần ghi nhận là thầy giảng André không có trong danh sách 117 vị thánh tử đạo Việt Nam được phong vào năm 1988, và cũng không thấy có vị truyền giáo Bồ Ðào Nha hoặc bổn đạo nào của họ trong danh sách nàỵ Việc xin phong thánh cho André, đề nghị lên Toà Thánh từ năm 1649, nay còn đang cứu xét; việc chậm trễ khó hiểu này dường như do việc thất sủng của các tu sĩ Dòng Tên từ sau năm 1659, và sau đó còn do việc tranh cãi về những lễ chế suốt mấy thế kỷ, chứ không phải vì chính công đức của người thanh niên gan dạ này.

  46. Chẳng hạn xem nhận định của tu sĩ Dòng Tên Joseph Tissanier trong các thư gửi cho Goswin Nickel, 29.10.1659, và cho Pierre le Carre ', 20.11.1660: ARSI, JAP-SIN. 80, tr. 149-149v và 151-151v.

  47. Ngoài các tài liệu khác, nên xem Francisco Faria Paulino, Maria Leonor Carvalhão Buescu et alii (dir.), "A gala'xia das língua na estraté gia da Evangelizacão", Lisbonne, Comissão Nacional para as Comemoracões dos Descobrímentos Portuueses, 1992; tr. 54-60, với thư mục trích dẫn; và Anna Paula Laborinho, "A questião da língua na estrate'gia da Evange lizacão" trong Macau, 31, 1994, tr. 66-72. Nhưng đại tác phẩm liên quan đến tiếng Nhật có vào khoảng giữa thế kỷ 16 và 17: Dictionnarium Latino- Lusitanum ac Japonicum ex Ambrosii Calepini volumine depromptum", Amacusa, 1595, xem bản chụp lại, Tokyo, 1953 và 1979; "Vocabulario da Lingoa de Japam com a declaracão em Portuguez", Nangasaqui, 1603. Hai bộ văn phạm Nhật Bản của João Rodrigues ("Arte da Lingoa de Iapam" và "Arte breve da lingoa Iapoa") đã được in tại Nhật Bản, tuần tự giữa các năm 1604-1608 và vào các năm 1620.

  48. Chẳng hạn xem lời tựa không đề tên của tác phẩm tập thể do Hoàng Văn Hành điều khiển, "Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng- Dictionary of Sino-Vietnamese everyday usage elements", Hà Nội, Nxb Khoa Học Xã Hội, 1991, tr.5-9. Cũng xem Nguyễn Thị Chân Quỳnh: "Concours de mandarins" (xem chú thích 3). Chúng tôi không nói đến trường hợp tiếng Ðại Hàn, vì tiếng này không được người Âu Châu nghiên cứu trong thời gian liên hệ.

  49. Francisco de Pina, sinh tại Guarda năm 1585m vào Dòng Tên năm 1605. Ông học ở Macao từ năm 1613 đến khoảng năm 1616, đặc biệt rành tiếng Nhật. Chịu chức linh mục ở malacca năm 1616, vào cuối năm 1617 đi truyền giáo ở Ðàng Trong; chết vì tai nạn tại đây ngày 15.12.1625. Do sự sai lầm của Fortuné-M. De Monte'xon và Edouard Esteve trong "Mission de la Cochinchine et de Tonkin" (Paris, Charles Douniol, 1858, tr.386), một số tác giả nay tiếp tục cho rằng Pina là người Ý. Nhưng tài liệu ghi trong các bản cũ đã nói rõ: xem Josef Franz Schutte, (e'd), "Textus Catalogorum" (chú thích 38) trang 855,955 và "Passim".

  50. Xem những chỉ dẫn thư mục nêu lên dưới tên "João Rodrigues" bởi Joseph Dehergne, "Répertoire de Je'suites de Chine de 1552 à 1800", Roma, Institutum Historicum S.II., và Paris, Letouzey et Ané 1973. Về con người và tài năng của ông, xem Michael Cooper, "Rodrigues the Interpreter. An early Jesuit in Japan and China", New York/ Tokyo, Weatherhill, 1974.

  51. "Tiene questo, huomo un figlio di sedici an~i il più uiuo et habile diquel loco, et il migliore scrittore nella Irã Cinese, cosa che tra di loroè di molta stimạ (...) Questo giuoane che battizato si chiama Pietro, conle Decalogo; che li Xpĩani già han~o imparato à mentẹ Compose anche il prẽ nella lingua gl' articoli della fede, ne quali bastantemte si declara hauer un Dio solo, li misterij dell Ssma Trinità, e dell' Incarnatne e Redentione, e la necessità che habbiamo di participare i meriti di Chrõ nrõ Sigre per mezzo della fede, e santi sacramenti. Li Xpiãni uan~o tutto scriuendo, e gia cominciano à dire la corona à nrõ modọ.." Bản báo cáo ký tên Francisco Eugenio, tu sĩ Dòng Tên người Ý ở Ma Cao, ghi lại những chỉ dẫn lấy từ một tài liệu khác "Annua del Collegio di Macaõ del 1618" (AERSI, JAP.- SIN, 114, trang 176-185). Bản văn trên trích ở các trang 183v-184.

  52. Câu văn trích ở Trang 183v.

  53. Những tài liệu này trích từ một bức thư mà chúng tôi nghĩ là nay chỉ còn một bản ở Văn Khố Dòng Tên tại Ma Cao, và chúng tôi giữ nguyên văn và phần bình chú: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, "Jesuítas na A'sia" quyển 49/V/7, trang 413-416. Thư không đề ngày và không ký tên; người chép lại (José Montanha hoặc Manuel A'lvares, vào khoảng năm 1755) chú rằng có thể do chính tay của Pina viết, và cho niên kỷ vào khoảng năm 1622-1623. Chúng tôi có thể chứng minh chắc chắn tác giả là Pina và niên kỷ (những tháng đầu 1623) có thể là xác thực hơn cả: xem Roland Jacques, "L'oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqúen 1650": Luận văn D.ẸẠ trình tại Paris. INALGO, 1995 (đang in).

  54. Daniello Bartoli, "Dell' Historia della Compagnia di Giesụ La Cinạ Terza parte dell' Asia", Roma, Stamperia del Varese, 1663, tr.618.

  55. "Era il P. Pina di antion Portoghese, in età di quaranta anni, caro anche a gl' idolatri, percioche ne parlaua la lingua quanto Cocicinese natiuo" ("La Cina", tr. 834).

  56. Xem thư của Fernandes gửi Nuno Mascarenhas, đề ngày 2.7.1625 tại Phe-phô: ARSI, JAP.-SIN. 68 (tr. 11-12): "... Một nhà (dòng) đã được tổ chức tại Cachão, thủ phủ của chúa (Nguyễn); cho đến nay, nhà đó không thuộc về số các nhà của Hội Dòng, mặc dầu có một cha luôn cư ngụ đó với một người bạn dòng. Bây giờ, cha Francisco de Pina ở đấy và dạy tiếng nói cho các cha Alexandre de Rhodes và António de Fontes."

  57. António de Fontes, sinh năm 1569 ở Lisbonne, nhập dòng năm 1584; ngài được uỷ thác nhiệm vụ truyền giáo tại Ðàng Trong từ 1624 đến 1631, rồi tại Ðàng Ngoài và cư ngụ ở đấy nhiều lần cho đến năm 1648.

  58. Xem Gaspar Luis, "Cocincinicae missionis annuae litterae anni 1625", ARSI, JAP.-SIN. 72 (tr. 50-67). (tr. 59v-59); và bài tường thuật không đề tác giả "Relacaõ de huã perseguicaõ da Christandade de Cochinchina" (1626): tldd., JAP.-SIN. 68, tr. 39-40 và 41-42.

  59. Công trình nghiên cứu giá trị nhất hiện nay về đề tài này hẳn là tác phẩm của linh mục Dòng Tên Việt Nam Joseph Ðỗ Quang Chính: "Lịch sử chữ Quốc Ngữ 1620-1659", Sài Gòn, 1972; tái bản Paris., Ðường Mới,1985. Tuy nhiên tác giả gặp trở ngại vì không sành tiếng Bồ Ðào Nhạ Công trình nghiên cứu cần được bắt đầu và bổ túc với toàn bộ tài liệu viết tay còn lưụ Về buổi đầu văn chương Kitô giáo, xem Georg Schurhammer, "Annamistische Xaveriuslteratur" (Văn chương Việt Nam liên quan đến Francisco Xavier) trong Johannes Rommerskirchen và Nikolaus Kowalski (ed.), "Missionswissenschaftliche Studien, Festgabe Pr.Dr. Johannes Dindinger (...)" (Các công trình nghiên cứu khoa học truyền giáo, ca ngợi gs. J.D.), Aix-la- Chapelle. Willhelm Metz. 1951, tr. 300-314; Võ Long Tê, "Dẫn nhập nghiên cứu tiếng Việt và chữ Quốc Ngữ" (Reichstett -Pháp- Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ/ Ðịnh Hướng Tùng Thư, 1997, và Nguyễn Văn Trung (Dr.), "Về sách báo của tác giả Công giáo (thế kỷ XVII-XIX)- Phân khoa Văn Chương Ðại Học TP. HCM., 1993, đặc biệt là những đóng góp của Thanh Lãng và Võ Long Tê.