|
DẤU HỎI NGÃ
Ðoàn Xuân Kiên
Bài được đăng từ trang nhà
Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Việt Nam
tại Bỉ quốc.
Như đã trình bày trong một bài trước đây [1], một từ tiếng Việt chỉ mang một trong số sáu thanh. Thanh là yếu tố định
bậc cao thấp trong thang âm sáu bậc của tiếng Việt hiện đại, và là yếu tố cần và
đủ để tạo thành ý nghĩa khu biệt của một từ. Sáu bậc cao thấp đó được cụ thể hoá
một cách dễ hiểu bằng sáu tiếng sau đây: ngang
(hoặc không) - huyền - ngã - hỏi - sắc - nặng. Phân
biệt bốn thanh khác không có khó khăn gì, nhưng hai thanh
hỏi và
ngã thì cần nhiều công phu.
Từ nghỉ và nghĩ chẳng hạn, chỉ khác nhau
ở một dấu hỏi hay ngã mà làm nên sự khác biệt về ý nghĩa của hai từ đó. So sánh
hai câu dưới đây để thấy sự khác biệt giữa hai thanh hỏi và ngã làm nên sự khác
biệt ý nghĩa của từ:
- Thôi, đừng nghĩ
ngợi làm gì cho mệt xác !
- Thôi chứ, đã hết giờ nghỉ
mệt rồi !
Cho nên lầm lẫn dấu hỏi ngã trong những trường hợp như thế sẽ thay đổi hẳn ý
nghĩa của từ trong một câu. Phân biệt dấu hỏi và ngã là một việc tương đối dễ
dàng đối với người nói giọng bắc, nhưng lại là một việc cần thiết cho những ai
nói giọng trung và nam - nghĩa là người phát âm giọng tiếng Việt từ phía nam
Thanh Hoá vào trong vùng tây nam bộ. Ðối với những người - đàng trong - thì phân
biệt hỏi ngã dựa trên phát âm là chuyện khó chính xác, vì số từ ngữ tiếng Việt
mang dấu hỏi và ngã là một khối lượng khá lớn
[2]. Do vậy, nếu nắm được một số những quy tắc hoạt động của thanh
hỏi và thanh
ngã thì sẽ giúp giải quyết
những khó khăn về dấu hỏi - ngã.
Trong bài này chúng tôi cố gắng hệ thống hoá lại những nét chính của chính tả
dấu hỏi ngã trong tiếng Việt. Vì việc phân biệt hỏi ngã có khác nhau giữa hai
loại từ vựng trong tiếng Việt, chúng tôi sẽ chia bài thành hai phần chính: trước
hết là phân biệt hai nhóm từ vựng trong tiếng Việt, sau đó mới tìm hiểu cách
phân biệt hỏi-ngã trong từng nhóm loại từ vựng này.
NHẬN BIẾT MỘT TỪ
TIẾNG VIỆT
Chúng ta biết rằng từ vựng tiếng Việt là tập hợp từ
những nguồn khác nhau: nguồn thứ nhất là những từ ngữ rất lâu đời của cộng đồng
ngôn ngữ Việt cổ thuộc họ ngôn ngữ Nam A¨; nguồn thứ hai là những từ ngữ vay
mượn từ một ngôn ngữ khác, hoặc là từ tiếng Hán (tức là tiếng Hoa nói vào đời
Hán), hoăc là từ một ngôn ngữ phương tây gần đây
[3]. Như vậy thì một từ
tiếng Việt có thể là một từ "thuần Việt" (hay có khi còn gọi là tiếng nôm), cũng
có thể là một từ Hán Việt, hoặc là một từ mới vay mượn từ một ngôn ngữ khác. Mỗi
loại từ trên
có những nét tính cách khác nhau về thanh. Nhận biết được một từ là thuộc nhóm
từ nôm hoặc từ Hán Việt sẽ giúp giải quyết được một số khá nhiều những trường
hợp cần phân biệt dấu hỏi ngã. Nhưng làm thế nào để phân biệt được đâu là một từ
thuần Việt và đâu là một từ Hán Việt hoặc một từ vay mượn ?
- Từ thuần Việt trước kia thường gọi chung đây là những "tiếng nôm",
nói trại từ "tiếng nam", tức là tiếng của người nước Nam - để phân biệt với
tiếng nói của người phương Bắc, tức là người Hán. Ðó là những từ có thể chuyển
đổi thanh theo quy luật hài thanh, hoặc là những từ láy âm theo phép hoà phối
ngữ âm. Chẳng hạn, từ nở, nóng, hỏi
là những từ thuần Việt, vì chúng có thể tạo thành những từ láy âm:
nở nang, nóng nảy, hỏ han.
Một từ như đã, chẳng, dẫu
là những từ thuần Việt, vì chúng có thể chuyển thanh điệu mà vẫn giữ nguyên ý
nghĩa: đà, chăng, dầu.
- Từ Hán Việt là những từ đã vay mượn từ vốn từ vựng tiếng Hán từ cả
gần hai nghìn năm trước đây, khi nhà Hán bên Trung Hoa sang đô hộ xứ mình. Số
từ Hán Việt đã chiếm quá nửa số vốn từ của chúng ta hiện nay. Có thể nhận biết
một từ Hán Việt hay không là nhờ mấy cách như sau:
- Nếu một chữ hay một tiếng có thể ghép với các tiếng như
nhất (một),
hữu (có),
vô (không),
bất (chẳng), thì từ ấy
phải là từ Hán Việt. Vậy thì từ nhân, ích, đạo,
bình là những tiếng Hán Việt vì chúng có thể
kết hợp có ý nghĩa với bốn tiếng trên kia: nhất
nhân, hữu ích, vô đạo, bất bình.[4]
- Nếu một chữ hay một tiếng có nghĩa nhưng không thể đứng một mình làm
thành một từ được mà chỉ có thể làm thành một thành phần của từ mà thôi, thì
đó là một chữ Hán Việt. Ví dụ: những tiếng quốc
(nước), gia (nhà),
sơn (núi),
hà (sông),
nhất (một),
nhị (hai),& thường chỉ
ghép chúng với một tiếng khác chứ không thể dùng riêng rẽ được. Chẳng hạn,
để nói ý "hai quả núi", người Việt không thể nói
nhị núi hoặc
hai quả sơn; cũng thế, có
thể viết là nhất gia, sơn hà, nhị nhân...
nhưng không thể nói một gia, núi hà, hai nhân.
Vậy thì những tiếng quốc, gia, sơn hà, nhân,
nhất, nhị là những tiếng Hán Việt.
- Nếu gặp một chữ hoặc một tiếng mà ta không hiểu nghĩa, nhưng ta lại biết
rằng chúng có thể ghép chung với hai từ mà lại có cùng ý nghĩa, thì đó là
một tiếng Hán Việt. Ví dụ: ta gặp từ trường
sinh mà ta không biết tiếng
trường là gì, nhưng biết
là nó ghép chung với hai tiếng khác (trường dạ,
trường kỉ), thì có thể đoán biết là trường là
một tiếng Hán Việt có nghĩa là "dài"; hoặc là đọc đến mấy chữ
tác nghiệp, ta không hiểu tác là gì, nhưng biết
là có sáng tác, tác giả,
thì đoán biết tác
là một tiếng Hán Việt, có nghĩa đại khái là "làm ra cái gì đó".
- Nếu một tiếng nào đó mặc dù quen dùng riêng rẽ trong lời nói hằng ngày,
nhưng lại thấy chúng thường ghép trong ít nhất là hai từ Hán Việt, thì tiếng
hoặc chữ đó là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: tiếng
học là một từ quen dùng.
Tiếng này có thể gặp trong những từ Hán Việt như
học sinh, đại học, học vị.
Vậy thì tiếng học
là một tiếng Hán Việt. Thí dụ khác: tiếng chúng
có thể gặp trong các từ Hán Việt như quần
chúng, chúng sinh..., vậy thì
chúng cũng là một tiếng Hán Việt.
- Từ vay mượn: là những từ ngữ vay mượn từ vốn từ vựng của các ngôn
ngữ khác, cụ thể là các ngôn ngữ phương tây. Từ khi giao tiếp với phương tây
đến nay, tiếng Việt đã đưa vào kho từ vựng của mình những tiếng như xà phòng,
(áo) sơ mi, xi măng, (dầu) xăng, cao bồi, (trái) bom, phim, (xe) ô tô, cuốc
(xe), (bà) đầm, (bánh) quy, (nhà) băng, két (bạc), (kinh) xáng. Những tiếng
vay mượn này hoặc được phiên âm trực tiếp từ một từ ngữ phương tây (xi măng <cement>,
bom <bombe>, phim <film>, ô tô <auto>, băng <banque>),
hoặc được đọc trại âm theo lối phát âm của người Việt (xà phòng <savon>,
sơ mi <chemise>, xăng <essence>, cao bồi <cow boy>, cuốc
<course>, đầm <dame>, (bánh) quy <biscuit>, két <caisse>,
(kinh) xáng <chaland>). Những tiếng vay mượn này được cố gắng Việt hoá,
cho nên cũng mang tất cả các thanh của tiếng Việt.
DẤU HỎI NGÃ ÐỐI VỚI TIẾNG THUẦN VIỆT
Một tính cách rất nổi bật của tiếng Việt là tính cách hoà phối ngữ âm giữa
hai thành phần của một từ kép mà chúng ta thường gọi là
từ láy. Những từ có hai âm
tiết láy với nhau khi một hay nhiều thành phần âm tiết của hai âm tiết đó lặp
lại giống hệt âm kia (gọi là điệp âm), hoặc kết hợp với âm kia theo một trật tự
nào đó. Một vài thí dụ về từ láy: vui vẻ, xinh xắn,
khô khan, đẹp đẽ... Hiện tượng láy từ có tác dụng
trước hết là sự cân đối, sự hài hoà giữa các âm tiết của từ. So sánh hai câu
dưới đây:
2a Căn nhà này khá rộng.
2b Căn nhà này khá rộng rãi.
Cả hai câu nói đều đúng cách nói thông thường. Nhưng khi nói
rộng rãi như trong câu 2b thì
nghe êm ái hơn, dễ nghe hơn, và do đó được chuộng hơn.
Xem thế thì hoà phối ngữ âm là sự kết hợp hài hoà giữa thành phần của một từ với
một từ khác để tạo thành sự cân đối nhịp nhàng. Hoà phối ngữ âm có thể thực hiện
ở cả bốn thành phần âm tiết của từ:
Láy âm đầu: lững lờ, lờ vờ, lụng thụng
Láy âm chính: đo đỏ, gồ ghề, chúm chím,
nhõng nhẽo
Láy âm cuối: mũm mĩm, hầm hập, ươn ướt
Láy thanh: thênh thang, vàng vọt, lả lơi,
ngả ngớn
Ở đây chúng ta chỉ chú ý đến sự hoà phối ngữ âm về mặt thanh điệu. Sự phân bố
cân phương này được gọi là luật hài thanh
[5]. Luật hài thanh được thể hiện qua hai hiện tượng liên quan đến hoạt
động của thanh điệu tiếng Việt:
- Trước hết là sự hài thanh giữa hai âm tiết của từ láy: đây là sự phân bố
cân đối giữa các thanh giữa hai âm tiết của một từ kép thành từng đôi một
trong mỗi nhóm dưới đây:
Nhóm thứ nhất (thanh bổng): ngang - hỏi -
sắc
Nhóm thứ nhì (thanh trầm): huyền - ngã -
nặng
Theo bảng trên đây, hai từ thuộc nhóm thứ nhất có thể mang một trong ba thanh:
- Ngang - hỏi: lửng lơ, thơ thẩn, sang sảng
- Hỏi - sắc: lở lói, ngả ngớn, vắng vẻ, gắng
gỏi,
- Ngang - sắc: diêm dúa, nghe ngóng, mang
máng, líu lo, thối tha
Ba thanh thuộc nhóm thứ nhì được phân bố kết hợp như sau:
- Huyền - ngã: ầm ĩ, lờ lững, vòi vĩnh, ỡm ờ,
thẫn thờ,
- Ngã - nặng: kĩu kịt, nũng nịu, nhão nhoẹt,
hợm hĩnh, đẹp đẽ
- Huyền - nặng: mờ mịt, vàng vọt, lặng lờ,
mặn mà
- Luật hài thanh còn thể hiện cả trong hiện tượng chuyển thanh điệu của một
số từ. Tiếng Việt có nhiều từ biến đổi thanh mà vẫn không đổi ý nghĩa sang một
từ khác. Hiện tượng chuyển đổi thanh trong tiếng Việt cũng theo phép hài
thanh, nghĩa là các từ chuyển thanh theo hai nhóm mà
Lê Ngọc Trụ (1959) tóm lại
thành hai mô hình mà ông gọi là tan - tán - tản
và lãi - lời - lợi. Phép chuyển thanh này như
sau:
Ðổi thanh theo mô hình tan - tán - tản
(nhóm ngang - hỏi - sắc).
Dưới đây là một số trường hợp thường gặp:
chăng - chẳng |
lén - lẻn |
rảy - rưới |
chưa - chửa |
lỏm - lóm |
túa - tủa / toả |
không - hổng |
thoáng - thoảng |
há miệng - hả miệng |
phản - ván |
ham - hám |
nói hở - nói hớ |
tan - tản |
bấu - bâu |
vểnh mặt - vênh mặt |
Ðổi thanh theo mô hình
lãi - lời - lợi (nhóm
huyền - ngã - nặng). Dưới
đây là một số trường hợp thường gặp:
đã - đà |
ngỡ - ngờ |
chậm rãi - chẫm rãi |
lời - lợi |
cội - cỗi |
ướt đẫm - ướt đầm |
dẫu - dầu |
còi - cỗi |
đen sậm - đen sẫm |
cũng - cùng |
đỗ - đậu |
xoã tóc - xoà tóc |
(sông) Nhị - (sông) Nhĩ |
thõng - thòng |
ăn ruỗng - ăn ruồng |
- Ngoài ra, có một số từ Hán Việt và tiếng thuần Việt dường như có liên
quan, gần gũi với nhau [6]. Những trường hợp vay mượn qua lại như thế cũng tuân theo phép hài
thanh của tiếng Việt, nghĩa là cũng theo một trong hai mô hình
tan - tán - tản và lãi - lời - lợi.
Dưới đây là một vài thí dụ về sự giao tiếp ngôn ngữ như thế:
huyền - ngã - nặng |
ngang - hỏi - sắc |
cưỡng - gượng |
thiểu - thiếu |
trữ - giữ |
thố - thỏ |
đãi - đợi |
xả - xá |
Biết được tính cách của luật hài thanh thì chúng ta
có thể nêu lên thành luật gọi là "luật hỏi-ngã
của các tiếng nôm" như sau:
Luật 1 |
khi hai tiếng có thể láy được với
nhau thì hễ một tiếng mang dấu ngang (không dấu) hoặc dấu sắc thì tiếng
kia phải mang dấu hỏi; ngược lại, hễ một tiếng mang dấu huyền hoặc dấu
nặng thì tiếng kia phải mang dấu ngã. |
Luật 2 |
một từ có thể chuyển thanh điệu
sang ngang hoặc sắc thì chắc chắn là mang dấu hỏi (theo mẫu tan - tán -
tản); ngược lại, một tiếng có thể chuyển sang thanh huyền hoặc thanh
nặng thì chắc chắn là có dấu ngã (theo mẫu lời - lãi - lợi). |
Hai luật hỏi ngã này có thể giúp giải quyết được một số khá lớn các trường hợp
mà người viết đang còn phân vân không biết nên bỏ dấu hỏi hay dấu ngã. Chẳng
hạn, khi phải viết câu dưới đây, người nói giọng đàng trong có thể phân vân
không biết bỏ dấu hỏi ngã thế nào:
3a Chị mơ
gói thịt mơ
ra rồi ngao ngán thơ
dài.
Có thể dùng phép hài thanh (ngang hỏi sắc-huyền ngã
nặng) để tìm ra được rằng: tiếng Việt có nói mở mang (làm cho rộng ra) theo
luật ngang-hỏi-sắc, và có mỡ màng (có nhiều chất dầu, mỡ) theo luật
huyền-ngã-nặng; lại cũng có thở than (than vãn chuyện gì) mà không có *thỡ
(viết với dấu ngã). Vậy câu 3a bỏ dấu hỏi ngã như sau:
3b Chị mở
gói thịt mỡ
ra rồi ngao ngán thở
dài.
Một thí dụ khác là khi viết câu dưới đây:
4a Ðứa bé
đa ăn no rồi mà
vân chưa chịu đi
ngu.
Chúng ta biết là từ đã ở đây phải bỏ dấu ngã vì cũng
có thể nói đà mà câu vẫn không đổi nghĩa. Từ vẫn mang dấu ngã vì phó từ này
không có thể nhầm lẫn với từ vẩn - Có nghĩa là chất cặn bẩn, hoặc từ vẩn vơ
(có nghĩa là tâm trạng không dứt khoát) theo luật ngang-hỏi-sắc. Từ ngủ ở cuối
câu thì chỉ có thể láy thành ngủ nghê theo luật ngang-hỏi-sắc, nên phải mang
dấu hỏi. Vậy thì câu 4a được viết hoàn chỉnh như sau:
4b Ðứa bé
đã ăn no rồi mà
vẫn chưa chịu đi
ngủ.
- Ngoài ra, cũng nên biết thêm là người Việt - nhất là người miền Nam - hay
nói gộp các tiếng hai âm tiết thành một trong những trường hợp sau đây: phải
không > phỏng, bà ấy
> bả, ở bên ngoài ấy
> ở ngoải, hôm ấy >
hổm, năm ấy >
nẳm, hồi ấy >
hổi [7]. Tất cả những tiếng nói gộp trên đây đều mang dấu hỏi. Vậy thì có luật 3 như
sau:
Luật 3 |
Các tiếng nói gộp âm đều mang dấu hỏi |
- Trong kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại còn có một nhóm nhỏ những từ ngữ nước
ngoài nhưng đã được chuyển sang giọng đọc tiếng Việt. Các tiếng vay mượn
thường được phiên chuyển sang thanh hỏi: moả (< moi), xừ luỷ (< lui), đi rỏn
(< ronde), sở cẩm (< commissaire de police), làm cỏ vê (< corvée). Vậy có thể
nêu thành luật cho loại từ ngữ này như sau:
Luật 4 |
các tiếng vay mượn từ tiếng nước
ngoài và đã chuyển sang giọng tiếng Việt, thì thường viết với dấu hỏi. |
DẤU HỎI NGÃ CỦA TỪ HÁN VIỆT
Như đã nói ở trên, nhận biết được một từ Hán Việt sẽ có lợi rất lớn là phân
biệt được một phần khá lớn những từ mang dấu hỏi ngã thuộc nhóm từ Hán Việt. Giở
từ điển Hán Việt, ta có thể thấy là: (1) Những từ Hán Việt bắt đầu bằng các phụ âm d, l, m, n. nh,
ng, v thường viết dấu ngã [8]. Có khoảng 180 từ Hán Việt mang dấu ngã. Ví
dụ:
Phụ âm d: dã, dĩ, dũ, dữ. |
Phụ âm l: lão, lễ, lỗ, lữ |
Phụ âm m: mão, mãnh, mẫn, mỗ |
Phụ âm n: não, nễ, nỗ, nữ |
Phụ âm ng: ngã, ngỗ, ngũ, ngữ |
Phụ âm nh: nhã, nhĩ, nhũ, nhữ |
Phụ âm v: vẫn, vĩ, viễn, vũ |
(2)
Ngoài những trường hợp kể trên, các từ Hán Việt khác bắt
đầu bằng các phụ âm khác đều viết dấu hỏi, trừ những lệ ngoại sẽ nói ở
dưới. Ví dụ về các từ Hán Việt có dấu hỏi:
Nguyên âm: |
ả, ảo,
ẩn, yểu, uẩn, uỷ. |
Phụ âm |
|
b |
bảo, bỉ, bỉnh, bổng, bửu |
c/k/q |
cảo, cổ, củ, kỉ, kiểu, quả,
quản, quảng, quỷ |
đầu ch |
chỉ, chiểu, chuẩn, chủng, chử |
đầu đ |
đả, đẩu, để, điểu, đổ |
gi |
giả, giảo, |
h |
hảo, hỉ, hổ, hủ |
đầu kh |
khả, khẩu, khổ, khởi |
ph |
phả, phỉ, phổ |
s |
sỉ, sổ, sửu |
t |
tả, tảo, tể, tỉ, tổ, tử |
th |
thải, thổ, thủ, thưởng |
tr |
trảo, trảm, triển, trưởng |
x |
xa, xả, xảo, xỉ, xử |
Nhóm thứ nhì này có khoảng 30 trường hợp ngoại lệ, cần nhớ thuộc
lòng. Dưới đây là bảng liệt kê các từ đó với những thí dụ về từ ghép
đặt trong ngoặc:
Phụ âm |
|
b |
bãi (bãi thị, bãi nại), bĩ (bĩ
vận), |
c |
cữu (linh cữu), cưỡng (cưỡng
đoạt) |
đ |
đãng (khoáng đãng), đễ (hiếu
đễ), đỗ (Ðỗ thị) |
h |
hãm (hãm hại), hãn (hãn hữu),
hoãn (hoãn binh), hĩ (một tiếng đệm), hỗ (hỗ trợ), hỗn (hỗn hợp, hỗn
mang), huyễn (huyễn mộng), hữu (bằng hữu) |
k |
kĩ (ca kĩ, kĩ thuật, kĩ xảo) |
ph |
phẫn (phẫn nộ), phẫu (giải
phẫu) |
d |
quẫn (quẫn bách), quỹ (quỹ
đạo, quỹ tích, thủ quỹ) |
s |
sĩ (bác sĩ, viện sĩ), suyễn
(suyễn tức, suyễn yết) |
t |
tiễn (tiễn biệt), tĩnh (tĩnh
mịch), tuẫn (tuẫn tiết) |
th |
thuẫn (mâu thuẫn), thũng (phù
thũng) |
tr |
trãi, trẫm, trĩ (ấu trĩ), trữ
(dự trữ, lưu trữ, tích trữ) |
x |
xã (xã hội, xã tắc) |
Từ hai điểm trên, chúng ta có thể nêu lên hai luật hỏi
ngã dành cho tiếng Hán Việt như sau:
Luật 5 |
các từ Hán Việt có phụ âm đầu d, l, m,
n, nh, ng, v đều có dấu ngã. |
Luật 6 |
các từ Hán Việt khác có thanh hỏi. Trừ
khoảng 30 trường hợp ngoại lệ. |
Tóm lại, viết dấu hỏi ngã tiếng Việt cho
dù phức tạp nhưng vẫn có những lề luật từ tự thân tiếng Việt. Những mẹo luật mà
Nguyễn Ðình và Lê Ngọc Trụ đã phát hiện và được nhắc đến ở đây chẳng qua chỉ là
những phát hiện những quy luật ẩn dấu trong hoạt động ngôn ngữ mà thôi. Ðể có
thể áp dụng sáu "luật hỏi ngã" trên đây, cần đến công phu thực tập đều đặn trong
một thời gian đủ để chiêm nghiệm những quy luật được thể hiện qua thực tiễn ra
sao.
Trong tình hình dạy và học tiếng Việt tại hải ngoại hiện nay, việc phân biệt dấu
hỏi và dấu ngã là một công việc khó khăn. Nhưng đây cũng lại là một việc cần
thiết vô cùng, vì đó là một trong những công việc cần thiết để nâng cao trình độ
hiểu biết về chuẩn mực ngôn ngữ của tiếng Việt. Có thể là chuyện viển vông khi
nói đến chuẩn mực ngôn ngữ ở hải ngoại lúc này, nhưng đây lại là nhu cầu chính
đáng của lớp trẻ ngày càng đòi hỏi phải nhìn lại cho rõ đâu là chuẩn mực ngôn
ngữ. Ðó cũng chính là mục đích của chính tả vậy [9].
Ðoàn Xuân Kiên
Luân Ðôn (1998)
* Bài đăng trong tập san Ðịnh Hương 21 (1998)
Tài liệu:
-
Lê Ngọc Trụ (1959): Chánh Tả Việt Ngữ. (bản in kì 2). Sài Gòn: nxb.
Trường Thi
-
Nguyễn Ðình
(1939): Luật Ngã Hỏi, tạp chí Tao Ðàn (Hà Nội), bộ mới,
số 8, ngày 16.6.1939
-
Phan Ngọc (1982): Chữa Lỗi Chính Tả Cho Học Sinh. Hà Nội: nxb.
Giáo Dục
Ghi chú:
[1] Ðoàn Xuân Kiên, "Bàn về việc đánh dấu thanh tiếng
Việt", in trong tập san Ðịnh Hướng số 17 (mùa thu 1998), tr. 109-121.
[2] Tiếng Việt hiện đại có khoảng 2000 từ mang dấu hỏi, và
khoảng trên 1000 từ mang dấu ngã.
[3] Nói về hiện tượng vay mượn thì cần chú ý riêng đến vốn từ
ngữ mượn từ tiếng Trung Hoa do người Hán đem sang từ khi họ đô hộ nước Việt cổ.
Trong một thời gian dài cả nghìn năm, tiếng Hán đã trở thành một thứ ngôn ngữ
chính thức trong xã hội Việt. Ðến khi nước ta giành lại nền độc lập (năm 939)
thì tiếng Hán vẫn là thứ văn tự chính thức trong hành chính và giáo dục. Vì thế
mà chúng ta gọi kho từ ngữ Hán dùng tại nước mình là tiếng Hán Việt. Chỗ đứng
của tiếng Hán Việt trong kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại rất là đặc biệt, khác
hẳn với một số nhỏ những từ ngữ mượn từ các ngôn ngữ phương tây về sau: đã từ
lâu đời rồi, ngôn ngữ văn hoá của người Việt không thể thiếu vốn từ Hán Việt.
Chỗ đứng của tiếng Hán Việt trong tiếng Việt trong chừng mức nào đó tương tự như
tiếng Latin trong các ngôn ngữ Ấn-Âu vậy. Trước đây, nhà cầm quyền cộng sản Việt
Nam toan loại bỏ chỗ đứng của từ Hán Việt. Nay thì họ lại rơi vào một quá khích
khác, là dùng nhiều từ Hán Việt đến mức làm cho tiếng Việt nhiều khi tối tăm,
nặng nề. (Báo Nhân Dân có thừa những dẫn chứng cụ thể về chuyện này). Chúng ta
không sùng bái nhưng cũng không thể có thái độ kì thị đối với tiếng Hán Việt. Vả
chăng, số vốn từ vựng Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại chiếm đến khoảng 60% từ
ngữ, thì thái độ chính đáng của bất cứ ai quý trọng tiếng Việt là cần phải học
hỏi và trau giồi vốn từ Hán Việt.
[4] Cần lưu ý là trong lối nói thông
thường hiện nay có khi chúng ta nói bất kể nhưng đây là trường hợp nói sai quy
tắc, vì kể không phải là từ Hán Việt.
[5] "Luật" này đã được một nhà giáo
trẻ -tên là Nguyễn Ðình- tìm ra đầu tiên. Ông gửi đăng trên tạp chí Tao Ðàn số 8
bộ mới (1939) một bài báo mà ông gọi là luật ngã hỏi. Về sau ông Lê Ngọc Trụ đã
phát triển thêm và gọi đó là luật bổng trầm (1943). Cũng Lê Ngọc Trụ đã khai
triển thêm về những lề lối chuyển thanh âm của tiếng Hán Việt, và hoàn chình các
mẹo luật chính tả tiếng Việt trong tập Chánh tả Việt ngữ (1952).
[6] Các nhà Hán ngữ học (như Vương
Lực) đã dò tìm trong một số từ ngữ Việt rất gần với giọng phát âm của người Hán,
và đã đưa ra giả thuyết là tiếng Hán cổ có thể cũng vay mượn một số từ của Giao
Châu trong thời kì người Hán sang đô hộ.
[7] Gs. Lê Ngọc Trụ cho rằng có một
ngoại lệ là hỗi (dấu ngã), vì ông cho rằng đó là nói gộp âm của "hồi nãy đến
giờ". Các bạn miền Nam của chúng tôi thì lại cho rằng khi nói hổi, họ nghĩ đến
"hồi đó tới giờ". Vậy thì có một biệt lệ ở đây hay chăng?
[8] Ðể cho dễ nhớ, có thể học thuộc
lòng câu sau đây: "mình nên nhớ là viết dấu ngã ", trong đó các âm đầu đều mang
phụ âm của các từ Hán Việt có dấu ngã.
[9] Chính tả nghĩa là viết (tả) cho
đúng (chính), nghĩa là viết đúng theo một mẫu mực nào đó được xã hội công nhận
và quy định làm mực thước cho mọi người phải tuân theo.
| |