|
Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Việt Nam
NHẬN DIỆN CHÂN TƯỚNG
VUA THẦN NÔNG
NGUYỄN XUÂN QUANG Theo các bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như Ðại Việt
Sử Ký, Khâm Ðịnh Việt Sử, An Nam Chí Lược, Việt Sử Lược
thì nguồn gốc dân tộc Việt Nam như sau "Ðế Minh cháu bốn
đời vua Thần Nông nhân đi tuần thú phương Nam, đến núi
Ngũ Lĩnh, kết hôn với một nàng tiên đẻ ra một người
con là Lộc Tục. Vua lập đài tế cáo trời đất, phong cho
con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ
là Lộc Tục làm vua phương Nam..." (Trần Ðại Sỹ, Từ Triết
Học Ðến Huyền Thoại Nguồn Gốc Tộc Việt, Hai Mươi Năm
Văn Học Hải Ngoại tr.1046). Về nguồn gốc dân Việt là con
cháu vua Thần Nông bên Tầu này đã có nhiều học giả Việt
Nam tranh luận. Người cho Thần Nông là người Tầu, kẻ lại
cho Thần Nông là người Việt (Hừng Việt).
Thần Nông là người Việt?
Trong các học giả cho Thần Nông là người Việt, người
tiêu biểu là giáo sư Kim Ðịnh. Giáo sư Kim Ðịmh theo Mộng
Văn Thông cho là Thần Nông là vua của Viêm tộc tức Việt.
Theo Mộng Văn Thông trong Cổ Sử Nhân Vi, Viêm là Việt + Miêu,
giáo sư Kim Ðịnh gọi là Vimê. "Theo thuyết trên thì vua Thần
Nông hiệu là Viêm đế là Việt chứ không phải Tàu. Vua ấy
giỏi nông nghiệp và bị một thủ lãnh của Tàu là Hiên Viên
hạ sát để cướp đất và cướp luôn nền văn minh nông
nghiệp đó" (Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc
Việt Nam tr.93).
Thần Nông Là người Tầu?
Học giả Bình Nguyên Lộc chống đối kịch liệt lại việc
cho rằng Thần Nông là người Việt. Cụ cho rằng Mộng Văn
Thông gọi chúng ta là Viêm là có ý đồ chính trị "sách của
ông là một mưu đồ chính trị rất là thâm sâu và độc
ác... Khi mà họ làm cho 700 triệu người Tàu tin rằng Tàu
là Việt thì 700 triệu người ấy hẳn sẽ có khuynh hướng
thống nhất ta... và khi 30 triệu người Việt cũng tin in hệt
như thế thì ta mất hết cả ý chí chống xâm lăng. Hoa và
Việt đã là một thì thống nhứt là đúng, còn chống làm
gì nữa" (tr.91). Người Tàu có gọi ta là Viêm bang : "họ có
chỉ nước ta là Viêm bang, nhưng đó là sau đời Hán" (tr.86).
Cụ kết luận "như thế thì Thần Nông chỉ có thể là Tàu"
(tr.103). Theo câu sử trên ta cũng thấy Ðế Minh "đi tuần thú
phương nam" chứng tỏ ông là người phương bắc, tức là
người Trung Hoa. Ðế Minh lấy một nàng tiên ở Ðộng Ðình
Hồ, vùng núi Ngũ Lĩnh đẻ ra Lộc Tục nhưng con cả lại
là Ðế Nghi như thế Long Nữ là vợ bé và Kinh Dương Vương
là con vợ bé. Vua đầu tiên của Việt Nam là con vợ bé ông
vua phương bắc Ðế Minh. Như thế Thần Nông là ông vua Tầu.
Nguồn gốc chúng ta là người Tầu.
Thần Nông là ông tổ chung cả Tầu và Việt?
Theo câu sử trên ta cũng thấy Thần Nông là ông tổ chung
của Tầu và Việt. Chúng ta là dòng con vợ bé. Bác sĩ Trần
Ðại Sỹ cũng chấp nhận điều này: "Xét triều đại Thần
Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây (Ðế
Minh) thì chia làm hai:
1. Thần Nông Bắc
- Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch)
- Vua Lai (2843-2794 TTL)
- Vua Ly (2795-2751 TTL)
- Vua Du Võng (2752-2696 TTL)
Ðến đây triều đại Thần Nông Bắc chấm dứt, đổi
sang triều đại Hoàng Ðế từ năm Giáp Tý (2697 TTL). Các nhà
chép sử Trung Quốc lấy thời đại Hoàng Ðế làm kỷ nguyên.
Trong Sử Ký, Tư Mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ Ðế
Bản Kỷ, coi Hoàng Ðế là quốc tổ Trung Quốc.
2. Triều Ðại Thần Nông Nam
Thái tử Lộc Tục lên làm vua năm Nhâm Tuất (2879 TTL) hiệu
là Kinh Dương, lúc mười tuổi. Sau này người Việt lấy năm
này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho tới nay là
4872 năm, vì vậy người Việt hằng tự hào là có năm nghìn
năm văn hiến" (Tr.1046). Ðó là sử Việt viết về Thần Nông
còn sử Trung Hoa họ nói gì về Thần Nông?
- Theo truyền thuyết thì Thần Nông là vị vương thứ nhì
trong tam vương: Phục Hy, Thần Nông và Yen Ti. Theo truyền thuyết
thì Thần Nông là một vị thần nông nghiệp. Ông là vị thần
đầu giống hình đầu bò, người dậy dân chúng cách làm
ruộng, trồng trọt cũng như dùng cây cỏ làm thuốc. Ngày
nay còn quyển sách thuốc có tên là Thần Nông Bản Thảo.
Ông có hiệu là Viêm đế. Hình 1: Vua Thần Nông (Shennong) đầu
bò, vị vương thứ nhì của Trung Hoa, dậy con người trồng
trọt và dùng dược thảo. (Bản khắc trong Sanzai tuhui (năm
1607). Ðại Học Hồng Kông.) Theo cái hiệu Viêm đế này có
người cho rằng ông là vị thần "gió nóng" (burning wind). Có
người cho ông là vị thần lửa. Giáo sư Kim Ðịnh theo Mộng
Văn Thông cho ông là người Việt vì người Trung Hoa thời
nhà Chu gọi chúng ta là Viêm bang và gọi phương nam là viêm
phương.
- "Theo sử Tầu thì Thần Nông làm vua được 8 đời mới
bị Hiên Viên diệt" (BNL tr.104). Hiên Viên là Hoàng Ðế.
Có Hay Không Có Thần Nông?
Vì có nhiều điều không ổn về Thần Nông nên khiến chúng
ta khó tin rằng Thần Nông là ông tổ của chúng ta.
- Thần Nông là vị vương thứ nhì của Trung Hoa. Ông tổ
của chúng ta là một người Tàu. Dĩ nhiên không thể chấp
nhận được. Các học giả Việt Nam cũng biết vậy nên tìm
một giải pháp dung hòa cho Thần Nông là ông vua của cả Tàu
và Việt.
- Thần Nông chỉ có làm vua tám đời và cách đây chừng
5.000 năm. Tổ của chúng ta quá trẻ. Như thế tổ của Thần
Nông là ai? Như thế Thần Nông không phải là ông tổ tối
cao thật sự theo đúng nghĩa của nó. Nhưng tại sao các nhà
viết sử hay dã sử lại dừng lại tại thời điểm Thần
Nông? Có một sự gì sai lạc ở đây.
- Thần Nông là ông vua giỏi về canh tác làm ruộng thì
là ông tổ của Hừng Việt chuyên sống về nông nghiệp sông
nước là hữu lý rồi. Nhưng những khai quật khảo cổ học
cho thấy việc trồng trọt cây cỏ sinh sống đã có từ lâu
rồi chứ không phải chỉ mới có 5.000 năm gần đây thôi.
Giáo sư về nhân chủng học Wilhelm G. Solheim II, Ðại học
Hawaii trong bài New Light On a Forgotten Past (Ánh sáng mới rọi
vào Quá Khứ Lãng Quên) đã tuyên bố "Tôi đồng ý với Sauer
rằng những thảo mộc đã được trồng cấy thuần canh đầu
tiên (first domestication of plants) trên thế giới đã được
thực hiện bởi những người có nền văn hóa Hòa Bình, ở
một chỗ nào đó tại Ðông Nam Á. Tôi không lấy gì làm ngạc
nhiên là sự thuần canh này đã bắt đầu sớm tới 15.000
trước Tây lịch" (National Geographic, March 1971 tr.339). Như thế
Thần Nông ông tổ nông nghiệp chỉ có 5.000 tuổi sai thấy
rõ.
- Người Trung Hoa gốc dân du mục săn bắn mà có ông tổ
nông nghiệp chung với chúng ta thật là phi lý.
- Vua Thần Nông chuyên nông nghiệp có hiệu là Viêm đế
tức vua lửa thật là tréo cẳng ngỗng. Cái niên hiệu Viêm
đế trái ngược với tên Thần Nông hiểu theo nghĩa nông nghiệp.
Trồng trọt canh tác cần nước nhất. Nhất nước, nhì phân,
tam cần, tứ giống. Một ông vua Nông nghiệp mà lấy hiệu
là vua "nóng" vua "lửa" thì cây cỏ bị hạn hán chết hết.
Viêm đế không thể nào đi với Thần Nông có nghĩa là nông
nghiệp. Không ổn. Nên nhớ Thần Nông theo sử chỉ cách đây
có 5.000 năm thôi mà sự phát kiến ra lửa phải là lâu đời
lắm. Như thế nếu Viêm đế đúng là thần lửa thì cái tên
Thần Nông hiểu theo nông nghiệp là sai và ngược lại. Chính
sự không ăn khớp, trống đánh xuôi kèn thổi ngược này
giúp ta tìm ra chân tướng Thần Nông là ai. Có người lại
cho rằng ông vua này đem lửa vào Trung Hoa. Dĩ nhiên quá ấu
trĩ. Lửa đã có từ thuở khai thiên lập địa. Con người
biết tới lửa rất lâu chứ không phải mãi tới đời vua
Thần Nông chỉ cách đây có 5.000 năm thôi. Lửa thiên nhiên
như núi lửa, cháy rừng, cháy núi, cháy các đồng cỏ (savanna)
con người khi còn là đười đã biết tới và có kinh nghiệm
với lửa. Sự cháy hoang dã (wild fire) này làm côn trùng và
thú nhỏ bị chết cháy rất nhiều và thú lớn chạy tản
mát đi nơi khác. Muông thú đã phải đi theo sau các đám cháy
này tìm mót thực phẩm. Loài đười cũng phải kiếm sống
bằng cách này. Và người thái cổ đã khám phá ra thịt thú
vật bị chết cháy ăn thơm ngon hơn ăn sống. Món ăn chín
đầu tiên mà loài thú, loài đười và người homo sapiens nếm
là món thịt nướng do những đám cháy thiên nhiên. Biết lửa
từ lâu và khám phá ra món thịt nướng cháy thiên nhiên ăn
ngon hơn thịt sống tanh tưởi đã khiến con người nghĩ đến
cách nướng thức ăn. Do dó con người nghĩ đến việc tìm
cách giữ lửa và gầy lửa. Dĩ nhiên phải mất một thời
gian dài. Gần vùng hồ ngầm dưới đất Escale ở Pháp các
nhà khảo cổ học tìm thấy dấu tích của lửa và của con
người cư ngụ lâu đời tới 700.000 năm, tuy nhiên chứng tích
rõ ràng nhất là các hố lò lửa khám phá thấy cách đây
300.000 năm. Như thế vua Thần Nông chuyên về trồng trọt lại
kiêm là vua biết gầy ra lửa hay giữ lửa chỉ cách đây có
5.000 thì quá gần, không thể nào chấp nhận được Ðể giải
thích sự vô lý giữa cái tên Thần Nông trồng trọt và tên
hiệu Viêm đế, các học giả Trung Hoa ngày xưa đã cố thêu
dệt cho ông cũng là thần "gió nóng" ("burning wind") có khả
năng làm hết được hạn hán.
- Thần Nông theo sử Tàu làm vua được tám đời nhưng
chẳng thấy dấu tích đâu cả. Tại sao lại tám đời ?
- "Cứ theo các cổ thư Trung Hoa thì vua Thần Nông đánh
diệt Bổ Toại". (BNL tr.93). Nhưng Bổ Toại là ai? Nước nào?
Sử không nói rõ. Vậy đây chỉ là hoang thoại? Người Trung
Hoa đã cóp nhặt Thần Nông từ các chủng tộc khác? Cũng
giống như đã nói trong bài Nhận Diện Danh Tính Vua Tổ Hùng
Vương ở số trước vì những điểm vá víu, vô nghĩa nên
Thần Nông cũng như Bàn cổ có lẽ Trung Hoa đã lấy của chúng
ta rồi sửa đổi và cải danh đi.
Hình 2: Bàn Cổ cầm trong tay trứng Hỗn Mang (Chaos) Âm Dương, sống 18.000 năm. Thạch bản, thế kỷ 19, Bảo
tàng Viện British, London. Học giả Bình Nguyên Lộc cho đây
chỉ là hoang thoại: "Nhưng thật ra thì vua Thần Nông không
bao giờ có, thế thì Viêm đế cũng không bao giờ có. Giáo
sư Kim Ðịnh cũng đồng ý với các nhà bác học Tây phương
(mà ngày nay các nhà bác học Trung Hoa cũng đồng ý như vậy)
là họ chỉ là một nhóm người Tàu văn minh trước các nhóm
người Tàu khác mà các Chu Nho ngây thơ theo tinh thần Evhémère
đã biến thành một nhân vật" (tr.105).
Thần Nông Người Là Ai?
Dù gì thì cổ sử cũng vẫn chép rằng ông tổ tối cao
của chúng ta là Thần Nông. Chúng ta nhận là con cháu Thần
Nông. Thần Nông có hiệu là Viêm đế rất ăn khớp với chúng
ta Xích quỉ Hừng Việt thờ Mặt Trời. Viêm là nóng là lửa
là mặt trời... Vậy Thần Nông người là ai? Chúng ta phải
quật "mồ" người lên để nhận diện chân tướng người.
Chúng tôi lại dựa vào phương pháp truy tìm tầm nguyên ngữ
học của chúng tôi. Nếu chúng ta nhận Thần Nông là người
Việt thì từ Nông phải là Việt ngữ. Chúng ta ai cũng biết
Hán ngữ nông là làm ruộng như nông nghiệp. Vì là Hán ngữ
chúng ta gạt nghĩa nông nghiệp này ra ngoài. Tổ tiên ta không
thể có tên bằng Hán ngữ. Tổ tối cao tối thượng của
chúng ta chưa biết làm ruộng.
Việt ngữ Nông:
Việt ngữ nông có những nghĩa sau:
- Nghĩa thông thường nhất là cạn, không sâu. Ý nghĩa
cạn với sâu này liên hệ tới nước (nông liên hệ với
na, lã, với nỏng, lỏng).
- Nông là cái bọc, cái túi, ví dụ chim bồ nông. Tại
sao lại gọi là chim bồ nông? Xin thưa bồ là do bổ đọc
trại đi mà thành. Theo b=m (b là dạng cổ của m như bồ hôi
= mồ hôi), bổ = mổ = mỏ. Cái mỏ là cái mổ, cái bổ. Còn
nông là cái bao, cái túi. Chim bồ nông là loại chim dưới
mỏ và cổ có cái bao, cái bọc, cái túi để xúc cá (xem hình).
Hình 3: Chim bồ nông mỏ túi dùng để xúc cá
Nông cũng liên hệ với nọng. Trong bài "Cái Ðầu Lâu Hoa
Cái Nhà Mày" khi nói về từ cổ, chúng tôi đã nói về từ
nọng này. Nọng là phần thịt xệ xuống ở dưới cổ như
cái nọng heo. "Ðầu trọng nọng khinh" là thịt đầu thì trọng,
thịt nọng cổ thì khinh. Ở người mập thịt dưới cằm
xệ xuống gọi là nọng cằm. Chim bồ nông là loài chim có
cái túi, cái bao, cái nọng dưới mỏ. Tóm lại Nông với ý
nghĩa liên hệ với nước và là cái bao cái túi. Nói gộp
lại hai nghĩa, nông hàm chứa ý nghĩa cái bọc nước. Vậy
Thần Nông là thần Bọc Nước (sẽ giải thích ở dưới).
Bây giờ chúng ta mò tìm những từ gần cận với nông. Sau
đây là những chữ gần cận với nông:
Nang
Theo chuyển hóa o=a (hột = hạt) ta có nông = nang.
Nang là cái bao, cái bọc, quả cau, cái trứng.
- Nang là cái bọc. Thường chỉ cái bọc có nước bên
trong vì nang có na(ng) là na, nã, lã, nác, nước. Danh từ y
học bướu nang hay bước bọc nước dịch từ chữ cyst.
- Nang là quả cau. Về hình dạng bên ngoài thuôn tròn trái
soan cau trông giống quả trứng. Khi bổ ra làm đôi quả cau
trông cũng giống hệt trái trứng. Quả cau có hột tròn bao
quanh bởi lớp thịt trắng, trông giống lòng đỏ và lòng
trắng của trứng. Bổ dọc một quả cau ra làm đôi trông
giống hệt một quả trứng luộc bổ dọc làm hai. Người
Mường ngày nay vẫn gọi cau là nang. Ðả Cần rằng:
"Còn thểu thứ ăn khang oỏng cloọng"
Binh Mường lể phất phất lả clù màng
Kịt kịt buồng nang clởng
Cla bao đệp, xếp bao đọi
Rằng:
"Tâu mơi ôông, hỡi ôông hà
Cảy nì là chù man nang
Choo ôông ăn khang oỏng cloọng"
(Trương Sỹ Hùng Bùi Thiện, Vốn Cổ Văn Hóa Việt Nam,
nxb Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 1995, tập II, tr.694).
Dịch ra Việt ngữ:
Ðá Cần lại rằng:
"Còn thiếu thứ ăn sang uống trọng"
Binh Mường lấy phất phất lá trầu màng,
Trĩu trĩu bẹ nang trứng,
Tra vào đệp, xếp vào đọi,
Ðưa lại rằng:
"Tâu ông ơi, hỡi ông à!
Ðây là trầu, nang,
Cho ông ăn sang, uống trọng".
(tập I tr. 810)
Ðoạn trên đây trích trong bài hát tế "Ðẻ Ðất, Ðẻ
Nước" của thầy mo Mường. Ðá Cần cũng gọi là Tá Cần,
con trai trưởng trong số năm mươi người ở lại trên núi
với mẹ Ngu Cơ. Bẹ nang trứng là buồng cau trứng, hai tác
giả dẫn trên giải thích là quả cau to tròn như quả trứng.
Thật ra nang là trứng. Cau là trứng. "Nang cloọng" là từ ghép
điệp nghĩa. Ta thấy rõ quả cau là quả nang, quả trứng.
Mo nang là mo cau. Mã Lai ngữ pinang là cau. Nang là từ nôm. Người
Trung Hoa gọi cau là binh lang, họ không thờ trầu cau và không
ăn trầu cau nên nang là Việt ngữ, Mường ngữ, Mã ngữ không
phải là Hán Việt. Hán Việt binh lang chắc chắn chỉ có thể
là từ phiên âm của chúng ta.
-- Ta cũng có từ ghép trứng nước ví dụ phải dập tắt
âm mưu từ trong trứng nước. Chúng ta nói trứng nước vì
trứng là một cái bọc nước và trứng khởi đầu là một
tế bào mầm có nước bên trong. Do đó nông nghĩa là bọc
nước ta đã thấy ở trên cũng có nghĩa là trứng. Thần Nông
là thần Bọc Nước, Thần Trứng. Như thế nang là cái
bọc nước, cái trứng. Ðến đây với nghĩa của Nông và
nang vừa giải thích ta thấy rõ Thần Nông là Thần Bọc Nước,
Thần Trứng.
Ngoài ra cau còn có nghĩa là không qua chứng tích từ ghép
trầu không.
ăn trầu không = ăn trầu cau
lá trầu không = lá trầu cau
ước lược những chữ giống nhau ở mỗi vế, ta còn lại:
không = cau
Không có một nghĩa là khoảng không, không gian, vũ trụ.
Vậy cau = nang = nông = không với không có hàm nghĩa là không
gian vũ trụ. Ta có thể kiểm chứng lại cho chắc ăn. Trong
toán học số không (zero) biểu tượng bằng vòng tròn như
chữ o. Ta ví o tròn như quả trứng gà. Như thế không = o (zero)
= trứng = cau. Trái cau là trái trứng, trái không (gian). Ta cũng
đã biết Pháp ngữ non (đọc là nông) có nghĩa là không là
chuyển hóa của Việt ngữ không. Trong bài viết "Mỡ Ểu Áo
Vàng Chẳng Có Việc" chúng tôi đã chứng minh Pháp ngữ non
= không (Việt ngữ) theo qui luật chuyển hóa kh=n như khỏ (khô,
trái bưởi khỏ là trái bưởi múi bị khô) = nỏ, khện =
nện. Như thế nông (túi, cau, Pháp ngữ non) dù cùng nghĩa hay
khác nghĩa về thanh âm cũng vẫn là chuyển hóa của không
(gian, zero, chẳng) được. Vậy trái không là trái nông, trái
nang, trái cau. Trầu không là trầu cau. Quả cau, quả không
là hình ảnh không gian, vũ trụ. Gộp lại các nghĩa vừa có
ta thấy thần nông, thần nang là thần trứng không gian, trứng
vũ trụ. Tiến sâu hơn nữa, đọc thêm hơi vào cau ta có cau
= chau, châu. Châu là đỏ, trời. Trái cau ăn với trầu cho
ra chất nước màu đỏ. Trầu là châu cũng có nghĩa là đỏ.
Phạn ngữ pan hay pahn, trầu cau. Theo p=b, pan = ban, Việt ngữ
ban là đỏ như ban sởi (Nhận Diện Danh Tính Vua Tổ Hùng Vương,
số trước). Trầu cau đều là đỏ nên dùng để thờ cúng
Tổ Ðỏ và đây là lý do sự tích trầu cau có từ thời vua
Ðỏ Mặt Trời Mọc Hừng vương. Vậy nông, nang là trứng
không gian vũ trụ. Thần Nông, thần Nang là thần Trứng vũ
trụ (cosmic egg).
Nung
Theo chuyển hóa o=u (tôi = tui), nông = nung. Nung là nóng, đốt,
hầm lửa như nung nấu, nung gạch. Thần nông, thần nung là
thần nóng, thần lửa. Thần Nông với nghĩa là Thần Nung có
hiệu là Viêm đế thì đúng đứt đuôi con nòng nọc rồi.
Nong
Nong là vật đan bằng tre tròn, lớn để phơi đồ. Cái
nong mang hình ảnh của mặt trời. Thần Nong là thần mặt
trời, thần vòm trời.
Nồng
Nồng là nóng như nồng nực, oi nồng... Ðiều này cũng
thích ứng với thần Nông, thần Nồng có tên hiệu là Viêm
đế.
Nọng
Nông liên hệ với nọng như đã thấy ở trên. Ở đây
xin nói tới nọng với nghĩa là lọng (n=l). Lọng là cái tán
che. Lọng tròn đỏ ngày nay còn thấy thờ trong đền chùa
và dùng cho vua. Chúng ta thờ lọng đỏ tiêu biểu cho mặt
trời tròn đỏ, cho vòm trời. Nọng, lọng cho ra nón. Chiếc
nón thúng của người Bắc tiêu biểu cho mặt trời. Người
Ao (Âu) Naga ở Assam, phần cực tây của địa khối Vân Nam
cũng thờ mặt trời (In a way, there is a sun worship...) (William
Carlson Smith, The Ao Naga Tribe of Assam, 1925, tr.87) cũng có nón
thúng hình tròn như người Bắc: "They have a large cicular hat,
about three feet in diameter, made of palm leaves and bamboo strips" (William
Carlson Smith, tr.19) (Họ có cái nón hình tròn đường kính khoảng
ba bộ làm bằng lá gồi và nan tre). Ðường kính ba bộ dài
gần một mét giống hệt nón thúng quai thao của phụ nữ miền
Bắc ngày nay còn dùng. Trong các đền miếu còn thờ các loại
nón thúng mặt trời này nhất là đền của các bà đồng
thờ Mẹ trời.
Hình 4: Phụ nữ miền Bắc đội nón thúng quai thao. (hình
sưu tập của Poujade de Ladevèze, Femme coiffée du grand chapeau,
in lại trong Những Hình Ảnh Xưa, Nguyễn Khắc Ngữ). Nơi đất
tổ lập quốc của Lạc Việt ở Bắc tổ tiên chúng ta đã
đặt tên cho ngọn núi cao nhất là núi Tản:
Nhất cao là núi Tản Viên
Núi Tản Viên vừa có nghĩa là núi hình "tán tròn", núi
hình lọng tròn tiêu biểu cho vũ trụ, vòm trời, mặt trời
vừa có nghĩa là núi Tản, núi Ðản nghĩa là núi Trứng, núi
Ðẻ. Vậy thần Nông là thần Lọng, Thần Vòm Trời, Thần
Mặt Trời.
Nùng
Theo o=u ta có nồng = nùng. Chúng ta có câu nói "núi Nùng
sông Nhị". Núi Nùng cũng là tên gọi núi Tản. Tại sao gọi
là núi Nùng? Xin thưa nùng là số một (number one). Núi Nùng
sông Nhị là núi Một sông Hai. Thật vậy chứng tích còn thấy
là trong Thái ngữ nung là một. Ðiều này cho thấy núi Nùng
là núi Nguyên Thể (primeval mountain) tạo ra trái đất. Tại
thượng du Bắc Việt có một sắc tộc nổi tiếng gan dạ
là người Nùng. Sắc tộc này đã gọi mình theo thần Nông.
Vậy thần Nông thần Nùng là thần số Một, thần Vũ Trụ.
Nòng
Theo n=l=tr, nòng = lòng = tròng. Ta nói lòng trứng, tròng trứng,
lòng đỏ, tròng đỏ... Con mắt có tròng nâu tròn và phần
trắng bao quanh trông giống cái trứng có tròng đỏ và tròng
trắng nên ta cũng nói tròng, lòng mắt. Mắt là tiêu biểu
cho trời. Mắt và mặt cùng một vần. Lòng còn có nghĩa là
bụng, là dạ. Ta có từ ghép lòng dạ. Dạ đây không hẳn
là dạ dầy mà là dạ con. Lòng-dạ-con mang nghĩa sinh đẻ
tương đương với trứng. Vậy Thần Nông là thần Nòng, Lòng,
thần Ðẻ, thần Mắt, thần Trứng.
Nàng, Nường
Nàng chuyển hóa với nồng. Nàng chỉ người có nang, có
trứng, có "nường" (với nghĩa tục) nghĩa là phái nữ. Nàng
là mẹ, là đẻ. Như thế Thần Nông là thần Nàng, là bà
Thần Nông chứ không phải ông Thần Nông. Trứng tiêu biểu
cho tạo sinh, sinh đẻ, giống cái. Mẹ Nông, Mẹ Nàng, Mẹ
Tạo hóa, mẹ khai sinh ra vũ trụ, thế giới, con người. Chuyển
hóa với nàng là nường cũng hàm nghĩa là phái nữ, mẹ, con
gái ngoài ra còn chỉ bộ phận sinh dục nữ như Nõ Nường.
Thần Nông là thần Nàng, thần Nường, là Mẹ tối cao tối
thượng. Tóm lại Thần Nông của chúng ta là thần Nang, thần
Nung, thần Nồng, thần Nùng, thần Nòng, thần Nong, thần Nàng,
thần Nường, thần Lọng... thần tạo ra, đẻ ra vũ trụ,
trời đất, vạn vật, là mẹ vũ trụ, mẹ trời. Với ý nghĩa
là vị thần tối cao tối thượng thì thần Nông là Thần
Nang là Thần Mẹ Trứng Vũ Trụ. Trứng vũ trụ (cosmic egg)
bao hàm ý nghĩa vũ trụ tạo sinh, tạo ra vạn vật nhưng trong
thực tế vũ trụ cũng giống hình quả trứng. Hãy ngửa mặt
nhìn lên trời, chúng ta thấy vòm trời khum khum như hình vỏ
trứng. Không gian trong suốt giống lòng trắng trứng. Mặt
trời đỏ giống tròng đỏ trứng. Vũ trụ quả là một trái
trứng. Ðể kiểm chứng lại cho đúng và để đánh tan những
nghi ngờ nếu còn sót lại trong đầu những người đa nghi
trong số một tỉ người Tầu và bẩy mươi lăm triệu người
Việt đã bị điều kiện hóa tin Thần Nông là nông thần,
y thần, chúng tôi xin đối chiếu Mẹ Trứng vũ trụ, bầu
trời của chúng ta với một vị thần bầu trời của một
tộc Nam Man ngày nay sống ở miền cực tây địa khối Vân
Nam. Ðó là người Ao Naga. Người Ao Naga là một tộc Nam Man
"săn đầu người" (head hunters) có lẽ là một tộc Âu Việt.
Họ có rất nhiều điểm giống Lạc Việt chúng ta như thờ
con dao (vừa là vũ khí) giống cái rào của ta (thấy trên trống
đồng) họ cũng gọi y chang như chúng ta là "dao", họ cũng
xâm mình, ăn trầu, có nón thúng tròn hình mặt trời như phụ
nữ miền Bắc, có nhà rong (nhà rồng), nhà làng gọi là morong.
Họ cũng kiêng không ăn thịt quạ và phụ nữ miền Bắc ngày
nay còn chít khăn mỏ quạ. Cả hai đều tôn thờ quạ. Các
người con gái Aor khi đi lấy chồng ngoài tộc vẫn giữ những
biểu hiệu cũ của thị tộc của mình trên quần áo mặc
hay đồ trang sức. Phụ nữ miền Bắc chít khăn mỏ quạ cũng
là một truyền thống cổ giữ lại biểu hiệu cũ của thị
tộc có từ ngàn xưa. Chẳng lẽ phụ nữ miền Bắc tôn thờ
đội trên đầu mỏ quạ đen ăn thịt người? Dĩ nhiên là
không. Quạ đây là con quạ vàng kim ô tiêu biểu cho mặt trời.
Các bà đồng chít khăn đỏ, khăn điều mỏ quạ. Ngày nay
phụ nữ bình dân miền Bắc đội khăn đà, khăn nâu, khăn
đen cho sạch. Phụ nữ miền Bắc chít khăn mỏ quạ mà vẫn
thấy đây là một tập quán đẹp không có chút gì xấu hổ
và các mhà đạo đức, trí thức Việt không hề bài xích
việc đội trên đầu loài chim quạ ăn thịt người, loài
chim quạ biểu tượng cho chết chóc. Ðiều này chứng tỏ
đây là một thứ sùng bái, một thứ tín ngưỡng, thờ phượng
chim trời của chúng ta. Và còn nhiều thứ nữa chúng tôi sẽ
khai triển thêm khi có dịp.
Hình 5: Người Ao, Nagaland ở Assam
Có nhiều học giả đã giải thích từ Naga. Có hai nghĩa
ăn khớp với chúng ta. Naga là rắn ăn khớp với thuồng luồng,
sấu dao (dao long), rồng của chúng ta. Naga có thể là dao đã
Ấn hóa (Nhận Diện Chân Tướng Vật Tổ Giao Long của Hừng
Việt, YHTT xuân Bính Tý). Nghĩa thứ hai Naga là noga do gốc
nog, nok, Ao ngữ nok hay noka là "people", người, liên hệ với
Phạn ngữ loka, people, ăn khớp với chúng ta Mường, Mán, Mọi
đều có nghĩa là Người, people. Từ Ao có lẽ là Âu. Họ
gọi họ là Aor. Các nhà nhân chủng học trước đây giải
thích Aor là "the going ones" (William Carlson Smith, The Ao Naga Tribe
of Assam, 1925, tr.171) chỉ những người vượt qua con sông lớn
Dikku ở Assam. Ta thấy Aor có nghĩa là "vượt" (sông), "bỏ
đi" chính là nghĩa của Việt. Có người đã giải thích từ
Việt là do người Trung Hoa gọi nhóm Xích quỉ Vượt sông
Dương Tử xuôi nam. Aor và Việt đều chỉ "vượt" (sông) bỏ
đi. Aor Việt mang âm Âu Việt đều là Hừng Việt. Họ cũng
thờ mặt trời. Họ cũng có taboo (cấm kỵ) gọi là genna hay
kenna (liên hệ với Việt ngữ kiêng, khem) là không ăn trứng
chỉ những pháp sư lúc làm lễ mới ăn trứng sống (Pháp
sư là những kẻ môi giới với thần linh nên ăn trứng để
biến mình thành ruột thịt với thần trứng mới có thể
liên lạc được với thần Trứng được). Họ treo vỏ trứng
thờ thần. "When the weather is inclement for several days, the priests
collect a number of eggs and going to a particular spot, break them and
eat them raw, hanging up the shells for the deity. Then they implore the
sun deity to grant favorable weather..." (William Carlson Smith, 1925,
tr.87) ["Khi thời tiết độc địa (kéo dài) nhiều ngày, các
pháp sư, thầy tế tìm nhặt trứng và tới một địa điểm
đặc biệt, đập trứng ăn sống, treo vỏ lên cho thần linh.
Rồi họ cầu xin thần mặt trời ban cho họ thời tiết thuận
hòa..."]. Chúng ta biết con người có taboo không ăn thịt vật
tổ hay vật thờ ví dụ người Ấn Ðộ thờ bò không ăn
thịt bò, thờ heo không ăn thịt heo. Từ đó ta có thể suy
ra người Ao Naga cũng thờ trứng nên có taboo không ăn trứng.
Ông Tổ tối cao của người Aor ngày nay có một tên là Anung
tsungrem ("god of the aerial expanse", thần bầu trời) (tr.78). Tsungrem
là thần. Rõ ràng (A)Nung, bầu trời giống hệt mặt chữ Nung,
Nông, thần trứng vũ trụ, bầu trời của chúng ta. Nếu giải
thích theo Việt ngữ thì Anung có thể là Ả Nung với ả chỉ
phái nữ thì Ả Nung là bà hay mẹ Nung. Thần Nông của chúng
ta cũng là Mẹ Nung, Mẹ Nông, Mẹ Bầu trời, Mẹ Vũ trụ.
Rõ như ban ngày là chúng ta và người Ao ở Nagaland đều thờ
thần Bầu Trời Nung (Nông)/ Anung và chúng tôi đã giải thích
Nung, Nông là Trứng Vũ Trụ. Nếu còn ai khó tính vẫn chưa
tin, chúng tôi kiểm chứng thêm một lần nữa qua ngôn ngữ
học. Ở trên ta đã biết Nung là bầu trời, không gian, trời
và Nung cũng có nghĩa là một như núi Nùng là núi Một và
Thái ngữ nung (one) là một. Vũ trụ giống trái trứng có nghĩa
là không gian, số không (zero), hư vô nhưng trong một vài ngôn
ngữ, vũ trụ lại có nghĩa hoán đổi với trời có nghĩa
là một. Ví dụ Anh Pháp ngữ vũ trụ gọi là Universe. Giải
tự Universe có Un, Uni (verse) là Pháp ngữ Un (một), unique (độc
nhất). Trong Pháp, Anh... rõ ràng vũ trụ là số một, là đầu
tiên, là trời là Nung (One). ...
Những Chứng Tích Việt Nam Thờ Thần Trứng
Chúng ta có thờ trứng vũ trụ không? Dĩ nhiên là có.
- Thờ cúng trái cau (trái nang, trái trứng) vật biểu của
Mẹ Trứng Vũ Trụ Thần Nông. Sự tích trầu cau có từ đời
Hùng vương.
- Thờ Mẹ Trứng Vũ Trụ Trống Ðồng Ðông Sơn. Vật tổ
Thần Nông có khắc trên trống đồng Ngọc Lũ (sẽ nói rõ
trong bài Ý Nghĩa Trống Ðồng đăng trên YHTT nay mai).
- Ông Bàng Tổ được sinh ra từ một cái trứng vũ trụ.
(Ông Bàng Tổ là của chúng ta xem Nhận Diện Danh Tính Vua Tổ
Hùng Vương số trước).
- Truyền thuyết bà Âu Cơ đẻ ra một trăm cái trứng nở
ra trăm con, trăm Việt. Bà Âu Cơ là một hình bóng của Mẹ
Trứng Vũ trụ Thần Nông.
- Hừng vương Mặt Trời Mọc do trứng bà Âu Cơ nở ra.
- Núi Tản: Tổ tiên chúng ta đã đặt tên ngọn núi cao
nhất tại vùng đất lập quốc là núi Tản có nghĩa là núi
Trứng.
- Thờ dâm thần Nường: Tại Bắc Việt trước đây kể cả nơi đất tổ Phú Thọ,
nhiều làng dân dã còn tục thờ phượng, rước lễ dâm thần.
Thờ Nường (cùng với Nõ).
- Ngày nay dân Việt cũng còn coi trứng là tiểu biểu cho
sự đầu thai, tái sinh. Chúng ta ngày nay cũng còn tục lệ
cúng người chết với một chén cơm bên trên có một quả
trứng luộc bóc vỏ để kẹp giữa hai cái đũa vót còn để
dăm bào xù một đầu. Ðũa đầu xù là hình thức cây nêu
để hồn có chỗ đậu xuống. Người Ainu có nhiều loại
nêu Inau. Một trong những inau đặc thù là loại inau chuốt
còn để lại vỏ dăm bào tua tủa, xoắn tít, rũ xuống, xù
ra ở một đầu gậy. Hình ảnh này thấy trong các cây nêu
Việt Nam làm bằng cây tre vẫn giữ lại cành lá ở chỏm
ngọn. Inau với phần xù trên đầu làm bằng nhiều mảnh dăm
bào dài, xoắn, còn để dính lại gọi là inau kike... Nêu này
được coi là loại có nhiều thần lực... (Nguyễn Xuân Quang,
'Cây Nêu, Một Cái "Nêu" Nhân Chủng Học', Y Tế Phổ Thông
xuân Ất Hợi, tr.66-72). Ta có thể kiểm chứng lại với các
dân tộc khác thờ Trứng vũ trụ như chúng ta:
A. Họ Hồng Bàng Thờ Mặt Trời
Truyền thuyết về tạo sinh vũ trụ của nhiều tộc thờ
mặt trời như Nhật, Ðại Hàn, Ai cập, Thổ dân châu Mỹ...
cũng chia xẻ quan niệm Mẹ Trứng Vũ Trụ Thần Nông của chúng
ta.
Ai Cập Thuyết vũ trụ tạo sinh của Ai cập cũng rất phức tạp
và thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, theo từng vùng.
Ðiều này cho thấy sự thờ bái mặt trời và trứng vũ trụ
có gốc gác không phải phát xuất ra từ Ai Cập mà du nhập
từ ngoài vào. Bằng chứng hùng hồn nhất là chỉ vua chúa
thờ bái mặt trời xây kim tự tháp còn dân dã không thờ
mặt trời. Nếu sự thờ bái gốc gác ở Ai Cập thì phải
được dân dã Ai Cập sùng bái.
- Một con chim được
cho là đẻ ra trứng vũ trụ là con cò ibis. Thần Cò có tên
là Thoth. Thần Cò Thoth cũng là thần của xứ mặt trời Heliopolis.
- Thần thoại về tạo sinh vũ trụ (creation myths) của Hermopolis
cũng giống như Heliopolis và Memphis, khởi sự từ gò đống
nguyên khởi (primeval mound) (tương ứng với núi Một, núi Nùng
của chúng ta). Tại Hermopolis, đền xây gần hồ thiêng và
trong hồ có một đảo nhỏ đó là gò nguyên tạo và là chỗ
hành hương (great place for pilgrimages). Từ gò đống này, vào
thời hỗn mang, xuất hiện một con ngỗng trời (celestial goose)
"Thiên Nga". Ngỗng trời đẻ ra một cái trứng. Trứng nở
ra thần Mặt Trời Ra và đấng tạo hóa (Sun god and creator of
the world).
- Ai Cập có nữ thần bầu trời tên Nut. Ta thấy nữ thần
Bầu Trời Nut gần cận với thần mẹ bầu trời Nung (Nông)
của chúng ta. Theo t=n ta có Nut = nun = nung = nông. Nữ Thần
Nut gần cận với nữ Thần Nung, thần Nông của chúng ta và
thần Anung của người Ao ở Nagaland.
- . Những hình quả trứng vẽ trên xác ướp trong các hình
tượng Ai Cập cũng tiêu biểu cho "hạt giống sinh thành" ("the
seed of becoming").
- . Mắt (tròng, trứng) là biểu tượng cho Mặt Trời Ra (eye
of Ra). Việt Nam từ mắt chỉ khác mặt có một cái dấu và
gọi trời là mặt trời và cũng có từ trời có mắt. Con
của thần Mặt Trời là Ma'at, nữ thần Chân Lý và Công Lý,
biểu tượng bằng cái lông chim trên đầu. Ma'at chính là Mắt,
Mặt Việt ngữ. Con đò trời (solar barque, đò chở mặt trời)
của Ai Cập có vẽ ở mũi thuyền hình con mắt giống y hệt
các thuyền ở miền Trung Nam Việt Nam ngày nay còn vẽ con mắt
ở mũi thuyền (xem hình).
Hình 6: Thần Mặt trời ngồi trên đò trời tay cầm chữ
thập ankh, đời sống, thường được gọi là "chìa khóa của
sự sống"
- Ai Cập ngữ Ankh, life, sự sống, đời, thường biểu tượng
bằng hình chữ thập trên đầu có lỗ hình quả trứng mà
các học giả thường gọi là "cái chìa khóa của sự sống"
("key of life") (xem hình). Thật ra theo chúng tôi đây là trái
trứng và cái cọc sinh ra đời sống. Ðây chính là biểu tượng
âm dương của Ai Cập (cái que, cái cọc, biểu tượng cho sinh
dục nam, trái trứng cũng tượng trưng cho dạ con, bộ phận
sinh dục nữ là biểu tượng cho âm, nữ giới). Ai Cập ngữ
Ankh liên hệ với Phạn ngữ anda (trứng).
Nhật Bản
Cũng như Việt Nam các vua chúa đều được đẻ ra từ một
quả trứng. Theo Cổ Thư thoạt khởi thủy thế giới là một
khối hỗn mang trời đất chưa tách biệt, hình dạng giống
như một quả trứng nhưng không có giới hạn. Sau đó, phần
tinh khiết hơn, trong sáng hơn biến thành trời (heaven). Phần
nặng hơn, thô kệch hơn lắng xuống biến thành đất. Lúc
này đất như cá trôi nổi trên mặt đại dương nguyên thủy
(primeval ocean)... Thái Dương Thần nữ là đời thứ sáu giống
hệt bà Âu Cơ cũng là con cháu dòng thứ sáu của Mẹ Trứng
Vũ Trụ Thần Nông (Thần Nông, tam vương là bốn, Ðế Lai
là năm, Âu Cơ là sáu).
B. Những Chủng Tộc Khác
Các chủng khác ngày nay không còn thấy rõ thờ mẹ Trời
nữa như Ấn Ðộ, Trung Hoa... cũng có thuyết trứng vũ trụ.
Ấn Ðộ
Ấn Ðộ có nhiều thuyết vũ trụ tạo hình. Cổ nhất thấy
trong kinh Rig Veda sáng tác bằng Phạn ngữ ở vùng Tây bắc
Ấn Ðộ vào khoảng năm 1.500 trước Tây lịch. Truyền thuyết
chính yếu của Rig Veda là truyền thuyết tạo sinh vũ trụ.
Thêm vào đó có nhiều truyền thuyết khác viết trong Brahmanas
vài thế kỷ sau. Trong kinh Rig Veda truyền thuyết cũng được
diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. . Vũ trụ thoạt
đầu là một khối hỗn mang. Sau đó thần tổ Indra, vua của
tất cả các thần linh và là thần mưa cùng thần mặt trời
Vishnu tách ra thành trời và đất. Rồi mặt trời mọc từ
rốn trái đất, tại đó dựng lên một cái trụ trời giữ
trời đất tách biệt ra.
Trong kinh Rig Veda về sau lại nói tới một truyền thuyết
khác về tạo sinh vũ trụ. Ðó là ông tổ vũ trụ Purusha,
người tự hy sinh chặt thân thể mình tạo ra vũ trụ và bốn
giai cấp xã hội (giáo sĩ, chiến sĩ, thường dân và nô lệ).
Purusha tương đương với Bàn Cổ.
Dần dần dẫn đến một vị thần duy nhất được coi
như là tác giả tạo ra vũ trụ. Ðó là Prajapati 'Ðấng Tạo
Hóa', về sau gọi là đấng Brahma. Trong Rig Veda, thần trời
loạn luân với con gái là thần rạng đông gieo hạt giống
mầm sống xuống đất. Trong Brahmanas thì cho là Prajapati làm
công việc này. "Hạt giống vàng" cho vào nước vũ trụ nở
ra trái trứng vàng vũ trụ sau đó tách ra làm hai trời và
đất. Mặt trời là lòng đỏ của trứng vũ trụ. Về sau
nữa vũ trụ được gọi là trái Trứng Brahma. Phạn ngữ Brahmânda
chỉ thế giới, vũ trụ; Brahmânda do Brahma-anda với anda là
trứng. Ðấng tạo hóa Brahma chui ra từ cái trứng này và hóa
phép cho các phần quả trứng biến thành tám con voi đứng
bốn góc và bốn điểm giữa để giữ trời đất tách biệt
ra.
Trung Hoa Chúng tôi đã nói trong bài Nhận Diện Danh
Tính Vua Tổ Hùng Vương số trước là thuyết tạo sinh vũ
trụ của người Trung Hoa có một thuyết cho là lúc Hỗn Mang
hay Hỗn Ðộn (Chaos) vũ trụ giống như một cái trứng gà.
Lúc đó đất trời chưa có. Từ trái trứng này đẻ ra ông
Bàn Cổ. Thuyết này xuất hiện rất muộn, không thống nhất,
rất hỗn độn vá víu... rõ ràng là Bàn Cổ không phải của
người Trung Hoa. Quan niệm vũ trụ là một cái trứng là của
Nam Man chúng ta.
Các Dân Tộc Khác Trong các cổ mộ thời sơ khai
tiền sử người ta tìm thấy nhiều trứng bằng đất sét
biểu tượng cho bất tử, tái sinh. Người La Mã chôn trứng
với người chết. Người Maori ở New Zealand, trước khi giống
chim Moa tuyệt chủng, có tục là để trứng của loài chim
lớn này vào tay người chết. Thiên Chúa giáo cũng coi trứng
là biểu tượng cho tái sinh, Phục Sinh. Biểu tượng của tái
sinh nhân dịp đầu mùa xuân của lễ Phục Sinh Easter của
chúa Christ với tục lệ là nhuộm hay sơn trứng đủ màu và
trẻ em đi săn trứng ngày nay còn thấy ở Hoa Kỳ.
Kết Luận
Mẹ Trứng vũ trụ Thần Nông là của Hừng Việt, là một
nữ thần tạo sinh ra vũ trụ là Mẹ, là Nàng. Trung Hoa đã
"hấp thụ" của rợ Nam Man rồi đổi qua thành thần Nông nông
thần lơ lửng trong sử Trung Hoa chẳng ăn nhập đâu vào đâu
cả. Thần Nông lại vá víu với nông thần và y học và chỉ
có khoảng 5.000 tuổi. Những cái gì chép nhặt bao giờ cũng
đầu Ngô mình Sở (đúng là lấy đầu của Ngô Việt ghép
vào đuôi Sở Việt làm thành Trung Hoa), chép nhặt bao giờ
cũng dấu đầu lòi đuôi. Các nhà nho ta đã Hoa hóa Mẹ Thần
Nông Trứng vũ trụ của chúng ta thành ông Thần Nông nông
thần của Trung Hoa. Mẹ Trứng vũ trụ Thần Nông của chúng
ta có từ khai thiên lập địa già 4.6 tỉ tuổi từ lúc thái
dương hệ ra đời và trái đất thành hình.
- Mẹ Trứng vũ trụ Thần Nông có hiệu là Viêm đế hiển
nhiên là đúng trăm phần trăm.
- Cổ sử Trung Hoa chép là thần Nông làm vua được tám
đời. Cả Tầu lẫn ta đều không ai biết tám đời này là
ai. Nhưng chúng tôi đã khám phá ra. Ðó là tam vương ngũ đế.
Ba đời vương cộng với năm đời đế tổng cộng là 8 đời.
Và chúng tôi cũng bật mí được cái bí mật là tại sao Ðế
Minh là vị đế đầu tiên lại là cháu bốn đời vua Thần
Nông. Rõ như ban ngày đế Minh sau tam vương nên là cháu bốn
đời của Mẹ Trứng Vũ Trụ Thần Nông của chúng ta.
Tóm lại Thần Nông tuyệt nhiên không phải là Nông thần
"đầu bò, đầu bướu", chuyên về canh nông và y học. Thần
Nông của chúng ta là Mẹ Trứng Vũ trụ Thần Nông có hiệu
là Viêm Ðế ăn khớp với với Hừng Việt, với Mặt Trời.
Viêm đế phải hiểu là thần Nóng, thần Lửa có từ lúc
hồng hoang "big bang". Chứng tích còn thấy là các vua Hùng cũng
thờ Thần Lửa, ngày nay còn di tích ở đền Hùng: "Trên đền
Trung là đền Thượng, tức Kính Thiên tĩnh điện (nơi các
vua Hùng thờ Trời, Ðất và Thần Lửa)" (Bảo Vân, Trẩy Hội
Ðền Hùng, YHTT, số 13, tháng 4, 1996 tr.9) Tất cả các thuyết
của Trung Hoa và của ta từ trước tới nay về vua Thần Nông
đều cần phải xét lại nếu không muốn nói trắng ra là
sai hết cả. Xin đề nghị kể từ nay để tránh lầm lẫn
nên gọi là Mẹ Trứng Vũ Trụ Thần Nông thay vì ông Thần
Nông.
Nguyễn Xuân Quang
| |