|
TÌM HIỂU TRIẾT
VIỆT
Đông Lan
Minh Triết Trống Đồng
Họa Đồ Tâm Linh Dân Tộc Việt
Trống Đồng là một vấn đề có liên
quan đến khảo cổ. Do đó bài trình bày về Trống Đồng của chúng tôi gồm có 2 phần
chính:
- Thứ nhất là Khảo Cổ Trống Đồng
- Thứ hai là Minh Triết Trống Đồng
Như chúng ta biết, Trống là một
cổ vật chung ở miền Đông Nam Á, gồm cả các nước Tàu, Việt, Miến, Thái, Phi, Mã
Lai, Nam Dương… mà trung tâm phát xuất lớn nhất là ở Việt nam. Trống xuất hiện
ngay từ thời khuyết sử như trống đất, trống gỗ, trống đồng, trống cầu mưa, trống
sấm, trống vu hích, trống cầm canh…
Về cổ thư Việt, vì bị quân Tàu
xâm lược lấy mất hết, không tìm được di tích.
Những sách sử từ thế kỷ 14 trở
đi có nhắc đến, và rất trân trọng. Trống thường được dùng trong tế lễ, các cuộc
thề nguyền rất thiêng liêng, trọng thể.
Triết gia Kim Định mô tả rất
chính xác ý nghĩa tôn quý của Trống:
“Trống Là Tiếng Vọng của Linh Hồn Việt”
Sử sách xưa của Trung Hoa từ
thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, đã đề cập đến trống đồng của Việt Tộc, tuy với ngụ
ý xuyên tạc văn hóa, nhưng đã nói lên sự sở hữu của Việt Tộc về Trống đồng. Năm
43, khi Mã Viện đánh Trưng Nữ Vương, đã thu hết trống đồng của ta để đúc ngựa
mẫu, nên trống bị quên lãng dần, chỉ còn là đối tượng của sự thờ cúng. Tuy
nhiên, khi Trần Lương Trung, sứ nhà Nguyên sang nước ta, đời vua Trần Nhân Tôn
(1291), có bài thơ “Cảm sự” trong Sứ Giao Châu tập, về Trống Đồng Việt:
Bóng lòe gươm sắc lòng thêm đắng
Tiếng rộn trống đồng tóc đốm
hoa.
Nghĩa là nhớ đến trận
chiến quân Nam đuổi đánh quân Mông Cổ sợ kinh khiếp đến nỗi chỉ nghe tiếng trống
đồng rộn rã mà sứ giả đã bạc trắng tóc rồi!
Về phía Tây phương, đến thời
Pháp thuộc, khỏang 1885-1895 thực dân Pháp mới nhận ra trống đồng Việt là một
di vật quí, tìm mua khắp nơi, và trưng bày ở các hội chợ, viện bảo tàng ngọai
quốc. Bốn trống nổi tiếng nhất là: Sông Đà, Khai Hóa, Ngọc Lữ, Hòang Hạ. Hai
trống Ngọc Lữ, Hòang Hạ đẹp và cổ hơn cả. Trống Ngọc Lữ ở chùa Long Đại Sơn làng
Ngọc Lữ tỉnh Hà Nam. Năm 1901 trường Viễn Đông Pháp đã nhờ trung gian chánh sứ
Phủ Lý lấy trống ấy về Viễn Đông Bác Cổ, Hà nội. Còn trống Hòang Hạ, tìm được
năm 1932, nhân lúc khai sông gần làng Hoàng Hạ, tỉnh Hà Đông, trao cho
trườngViễn Đông Pháp ở bảo tàng viện Finot, nay cũng ở Hà nội.
Về khảo cổ, thật ra mới đầu
trường Viễn Đông Pháp lập ra năm 1900 chưa chú ý nhiều đến trống đồng. Họ tập
trung vào nghiên cứu thời kỳ đồ đá ở Việt Nam như thời Hòa Bình và Bắc Sơn.
Nhưng một sự kiện tình cờ xẩy ra năm 1924, một người làng Đông Sơn ra sông Mã
câu cá sau trận bão lụt, thấy chiếc trống đồng nằm trên bờ sông, lấy về bán lại
cho một người Pháp tên là Pajot. Sau đó trường Viễn Đông Pháp giao cho Pajot
khai quật di chỉ Đông Sơn và tìm được tổng cộng 489 đồ đồng, trong đó có 20
chiếc trống loại lớn, thân hình trụ đứng thẳng, trên mặt có hình sao đúc nổi.
Lọai này được Heger chuyên gia khảo cổ về trống phân lọai hạng I trong các lọai
trống. Từ đó, trên thế giới chú ý và xuất hiện nhiều bài bình luận về Trống
Đồng Đông Sơn. Và tên Văn Hóa Đông Sơn trong ngành khảo cổ cũng do một nhà khảo
cổ người Đức Heine Geldern đặt tên trong thời gian này. Nhưng cũng từ khi Trống
đồng Đông Sơn được nổi tiếng thì nhiều di chỉ trống đồng được thám quật, và
Trung Quốc có sự tranh chấp chủ quyền về trống đồng với ta đã bắt đầu, khỏang
năm 1950. Gần đây, các nhà nghiên cứu khảo cổ trống đồng phối hợp với các ngành
khác như di truyền, hải dương, nhân chủng…thì sự tranh cãi không còn nữa. Sự
thật của lịch sử về nền Văn hóa Đông Sơn đã được các nhà khảo cổ trên thế giới
thưà nhận là của chủng tộc Việt. Mà Trống Đồng Đông Sơn tại Việt Nam là một đại biểu chói chang nhất.
Nói về các niên đại văn
hóa, ta có thể kể sơ:
- Văn Hóa Hòa Bình: Khỏang
ít nhất 10,000 năm trước Tây Lịch: Đây là thời đại đồ đá mới, người Hòa Bình đã
khắc phục trở ngại thiên nhiên, chế tạo dụng cụ sản xuất, từ bỏ đời sống hoang
dã, hái trái, săn bắt, Khai Sáng nền Văn Minh Nông Nghiệp tại Đông Nam Á. Người
Hòa Bình còn di chuyển từ Nam lên Bắc, sau này thành người Tàu, đi qua Nam
Dương, Mã Lai, vượt qua Mỹ Châu…Người Hòa Bình là tổ tiên của người Việt chúng
ta ngày nay.
- Thời đại Bắc Sơn: Khỏang
5000 năm truớc Tây lịch.
- Thời Phùng Nguyên: Khỏang
3000 năm truớc T.L
- Thời Đông Sơn: Khỏang
900-700 trước TL tới 200 năm sau T.L
Vua Hùng dựng nước từ 2879
trước Tây Lịch, và bị Thục Phán cướp nước vào năm 258 trước Tây Lịch. Như vậy
Thời Văn Hóa Đông Sơn nằm trong cuối thời của các Vua Hùng Vương.
Sự nổi tiếng của Trống Đồng Đông
Sơn về mặt cổ vật quý vì kỹ thuật luyện kim thời ấy. Trống Đông Sơn là đỉnh cao
của kỹ thuật hợp kim đồng, chì và thiếc, nhờ vậy đồng có độ dai bền vô cùng, có
thể dát mỏng làm mặt trống mà tha hồ đánh không thủng. Các hoa văn trên trống
đồng cũng là những khắc chạm độc đáo cùng với vẻ hòanh tráng của trống đồng đã
làm các nhà khảo cổ quốc tế ngưỡng mộ.
Chúng tôi xin tả sơ về các hoa
văn trên trống Ngọc Lữ:
Trống Ngọc Lữ có đường kính 79
cm, thân trống cao 63cm, tang trống ( thành trống) phình ra đường kính 86cm.
Trên mặt trống ở giữa là hình mặt trời nổi cao có 14 tia sáng . Giữa các tia
sáng là hình các tam giác. Từ đó chia làm 16 vòng hoa văn, mỗi vòng bao bởi
HAI đường chỉ chạy song song.
16 vòng này lại chia làm
BA nhóm vòng:
Nhóm vòng thứ nhất sát
vòng mặt trời, gồm hình như chim bay kiểu hình chữ S.
Nhóm vòng
thứ hai, ở giữa, chia thành hai nửa bán nguyệt: một bên 6 hình, một bên 8.
Triết gia Kim Định gợi ý cho chúng ta rằng có thể đây là dấu hiệu của thời thể
thơ lục bát . Điều này cũng dễ đồng ý vì lục bát là lọai thơ riêng của Việt Nam.
Một nửa 7
người hóa trang thành chim tay cầm lao, giáo,kèn.
Một dàn 4
chiếc trống với 4 người đang đánh bằng chầy đứng.
Một dàn cồng
chia hai, một bên 7, một bên 8, một người đánh.
Một nhà sàn
hình thuyền mái cong, có một chim đậu và hai người ở trong đang múa giao tay
giao chân, tức là như lối hát Lý Liên sau này.
Hát Cài Hoa Kết
Hoa (Lý Liên)
Nửa khác trên nóc nhà có hai
chim, đoàn người bên chẵn bên lẻ.
Nhóm vòng thứ ba,
gồm hai vòng nai và chim. Đặc biệt là cứ có một chim đứng thì một con bay, một
con đuôi dài cạnh một con đuôi ngắn, một con đực đi đôi với một con cái…
Khảo cổ làm việc để ghi lại
các yếu tố vật chất, như hình thể trống thuộc lọai nào, độ cao, chiều kích,hình
các hoa văn trên trống liên hệ ra sao với các hoa văn của từng thời đại văn hóa,
hay phân tích thành phần hợp kim, kỹ thuật đúc trống, nơi xuất phát trống của
từng lọai v.v….Những công trình khảo cổ giúp cho ta có cái nhìn về khía cạnh hữu
hình, hữu hạn của di vật cổ mà thôi.
Nhưng Nghệ Thuật
không chỉ là những gì bộc lộ ra ngòai. Điều mà nghệ thuật diễn tả được phải là
chỗ không lời, không thấy, gợi được cái cảm nghiệm vô biên, cái ý nghĩa thấm vào
tận đáy lòng người, làm rung cảm mối suy tư… Do đó, lý tưởng của nghệ thuật cũng
là lý tưởng của con người. Vì con người là gì? Có phải rằng chúng ta cũng chỉ là
một Tác Phẩm Nghệ Thuật độc đáo, cao cả, mầu nhiệm nhất của vũ trụ ?
Như vậy, ngắm nhìn các hoa
văn trên trống đồng dân tộc, nếu tâm hồn trầm lắng các vọng động, ta sẽ cảm
được cái nghệ thuật ẩn tàng của trống, nghĩa là tiếp cận miền vi tế của Tâm
Linh Tổ Tiên Việt.
Như vậy, Ngắm Nhìn Trống,
với Tâm Tư, chính là tác động của một Công Án
Thiền Tâm Linh của Đạo Việt.
Hay nói cách khác, theo
Triết Lý An Vi, muốn tìm hiểu tư tưởng Tổ tiên, ta phải đặt mọi vấn đề trong cái
sinh động của TÒAN THỂ nền văn hóa. Ta sẽ thấy các hoa văn trên di chỉ trống
đồng liên hệ chặt chẽ với các yếu tính văn hóa chung trên các khía cạnh khác
như ngôn ngữ trong huyền thọai, ca dao, tục ngữ; như con số huyền nhiệm; hay là
các phong tục, thể chế trong sinh họat làng quê Việt.
Thật thế, quan sát các hoa
văn chạm trổ trên trống đồng ta thấy các ấn tích văn hóa Việt đầy khắp.
1. Mặt trời: Là yếu tố ở
trung tâm trống: Điều này cũng trùng hợp với các quốc hiệu xưa của nước ta là
Xích Quỷ, Viêm Việt; Xích chỉ lửa đỏ, Quỷ nghĩa là Làm Chủ, Tinh Hoa, Viêm là xứ
nóng.
Như vậy, mặt trời có liên hệ
với danh hiệu nước, chứng tỏ sự gắn liền với mặt trời của dân xứ nóng, nông
nghiệp. Mà Việt Tộc là lãnh đạo. Thêm nữa, Việt Tộc làm nghề nông thì luôn dựa
vào thời tiết, mặt trời để canh tác cho thích hợp, nên trước khi sang biểu
tượng vật linh, trong giai đoạn đầu còn ảnh hưởng tâm lý bái vật, Việt Tộc đã
sùng bái mặt trời như là nguồn sinh dưỡng.
2. Vật biểu chim hiện ra
trong việc con người hóa trang bằng lông chim, các con chim đầy khắp vòng trống.
Tinh thần nước Việt hiện ra hình chim Tiên bay múa theo chiều tay trái. Truyện
Con Rồng Cháu Tiên chính từ biểu tượng của chim bay nhởn nhơ trên ruộng lúa nước
từ thời còn là người văn minh tiền sử Hòa bình cả chục ngàn năm xưa.
3. Dấu tả nhậm:Tả nhậm
là cài áo tay trái, nói rộng ra là trọng phía trái.Đòan người chim nai trên các
vòng trống đồng đều đi về phía trái. Phía trái là dấu riêng của Việt tộc, một
lần nữa, trống đồng đã ghi lai nét văn hóa độc đáo của chủng tộc. Chúng tôi có
một điều cần lưu ý ở đây: Không hiểu với trình độ cảm nhận Tâm Linh siêu việt
tới mức nào, mà Tổ Tiên Việt Tộc chúng ta cứ trọng hướng trái. Vạt áo bên phải,
nút áo bên phải, nên khi cài nút áo mặc, người Cổ Việt dùng tay trái. Điểm đặc
biệt này ngược với các sắc dân khác, như là người Hoa Hán, họ cài áo tay phải,
cho nên họ có câu: “ Tứ Di tả nhậm” để chỉ sự khác biệt của dòng tộc Tứ Di- tức
là tiền thân cũa dân tộc Việt. Thế mà ngày nay, với những khám phá mới nhất của
khoa thần kinh não bộ học, đã chứng minh phần bán cầu não phải là tập trung của
năng lực nghệ thuật, thẩm mỹ, cảm xúc. Mà như chúng ta đã biết, phần bên phải
của não điều khiển các vận động bên trái của cơ thể. Như thế có nghĩa là khi
sử dụng tay trái là liên hệ tới não phải, phần nghiêng về nghệ thuật, thẩm mỹ,
cảm xúc - tức là Minh Triết. Như chúng tôi đã thưa ở trên, Minh Triết gắn liền
với Nghệ Thuật và Nhân Sinh, và đó chính là đặc điểm của nền Minh Triết Việt.
Ngòai ra, tả nhậm còn ý
nghĩa là hướng ngược chiều mặt trời, ngược chiều kim đồng hồ. Đời sống đi theo
chiều kim đồng hồ là đời sống của vật thể, đo đếm, đều đặn, lạnh lùng, vô cảm,
lý trí cứng rắn của ý thức phân biệt . Ngược lại với những tính chất này, là đời
sống của tâm linh vô phân biệt, của cảm xúc nồng nhiệt của trái tim. Trong ngôn
ngữ, văn hóa ta nói vợ chồng, nhà nước… vợ trước chồng, nhà trước nước tức là
cái yếu ớt, nhỏ bé, cụ thể trước, đó là tả nhậm.
Có lẽ cũng vì cảm thức với Tiềm Thể Tâm Linh Minh Triết,
nên Việt tộc trọng phía trái, còn có nghĩa là sự trọng tình cảm, thương người
yếu kém trong văn hóa và đời sống Việt, còn tương quan với sự họat động của thần
kinh cảm xúc. Nếu như vậy, cảm xúc, sự tương giao, hòa hợp, hay tình yêu thương
của con người với thiên nhiên, vũ trụ, vạn vật, và với nhau đã nằm sẵn trong cơ
cấu thần kinh não bộ. Kích động cái nguồn tiềm lực ấy lên, khơi nguồn cái dòng
tâm đạo ấy lên, một trong những vận động ấy chính là tác động Tả Nhậm của Tổ
tiên Việt Tộc? Ôi! Huyền nhiệm thay sức sáng tạo từ trực giác tâm linh của Tổ
Tiên ta. Chúng ta đã tháp đôi cánh Tiên nương bay lượn trong cõi vô cùng, nên
thấy ngay cái chân lý tâm linh tả nhậm của bản thể vũ trụ, nhân sinh trong khi
khoa học mò mẫm bằng lý trí phải mất mấy ngàn năm mà cũng chỉ tìm được những
mảnh vụn rách rời của tấm họa đồ bí mật sự sinh tồn của vũ trụ.
4. Tính Lưỡng Hợp trên
trống: con cái và đực, các đuôi chim dài ngắn xen kẽ. Con bay con đứng cũng từng cặp…Rồi đến các vòng song song chạy đều trên mặt trống để phân chia giữa
những nhóm vòng hay các vòng tiếp tuyến chạy song song giữa từng vòng. Đây là
hình ảnh của tính nhịp đôi của Văn Hóa Việt, là biểu lộ tâm thức hai chiều, đã
đầy khắp mặt trống. Hình ảnh này ta còn tìm thấy nơi những hòn sỏi tìm được ở
Bắc Sơn (5000 năm trước Tây lịch) có hai dấu vạch song song với nhau. Cũng như
theo các nhà nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ Việt, thì khỏang 80% từ ngữ Việt gồm
hai chữ ghép với nhau. Thí dụ như: đi lại, ngang dọc, ăn làm, nói năng…
5. Nông nghiệp đã hiện
rõ nơi các chầy đứng giã gạo của nhà nông.
6. Địa vị Con Người : Địa
vị của một chủ nhân trong vũ trụ đã thể hiện trong mọi sinh họat trên trống đồng
ngay giáp vòng trung tâm mặt trời. Con người xuất hiện trong các động tác của múa, hát, giao hòa . Mọi người cùng múa, cùng hát, cùng giao tay chân . Người
điều động là một người của nhóm, ta thấy cảnh mọi người cùng nhau tham dự trong
một Tinh Thần Công Thể, như là các phần tử trong một cơ thể. Tuyệt nhiên
không hề có cảnh của mối liên hệ chủ –nô, ngay cả hình ảnh của vua quan và thứ
dân cũng không có. Đây là điểm nổi bật của tinh thần Nhân Chủ đã thể hiện rõ
ràng trong cảnh trên mặt trống. Mọi người bình đẳng bên nhau múa hát vang trời
dậy đất trong cuộc đại diễn hành về hướng trái để hội nhập với lửa trời thiêng
liêng ở trung tâm Trống Không của lòng mình.
7. Minh Triết Thái Hòa
trên mặt trống. 16 vòng bao gồm 3 nhóm vòng cuả Trời, Đất, và Người. Tất cả
đang an vui sinh động bên nhau.
Cảnh Trời-Đất-Người Thái Hòa
Tất cả cái
khung tâm thức lưỡng hợp, thái hòa như trời
- đất, chẵn - lẻ, vuông - tròn… là cái khung họa đồ của tư tưởng dân tộc. Khung
tâm thức ấy dù trải qua bao thăng trầm nguy biến, dưới ách lệ thuộc ngàn năm,
qua bao âm mưu cướp sạch, tiêu hủy văn hóa Việt để con cháu không con nhớ đuợc
cội nguồn, văn hóa của tổ tiên, nhưng kỳ diệu và may mắn thay, Văn Hóa chủng tộc
Việt chúng ta vẫn sống còn. Để ngày hôm nay, ta còn cơ hội chiêm ngắm các hoa
văn khắc ghi trên mặt trống mà nhận diện tấm họa đồ di bảo của tổ tiên. Nó hướng
con người Việt tìm về nội tâm, tìm ra lẽ sống an vui hòa bình. Nó linh thiêng
vì lẽ sống ấy không phải là vật chất nên không bị tiêu hủy qua bao ngàn năm
tang thương. Sức sống Việt là sức mạnh của Văn Hóa,
nên trường tồn, nên linh thiêng. Nên chúng ta có thể gọi tên là Họa Đồ Tâm Linh
Dân Tộc Việt.
Khảo cổ đã mang lại cho ta
niềm tự hào Việt Tộc, với nền văn minh lúa nước Hòa Bình. Đặc biệt nơi đây, khảo
cổ đã mang cho chúng ta tiếng Trống Đồng Đông Sơn rộn rã trong từng đáy lòng con dân Việt.
Nhưng thật ra, Trống Đồng
chỉ là một biểu tượng của khía cạnh Văn Minh. Nhưng còn nền Văn Hóa của Tổ tiên,
chúng ta chưa có dịp tự hào vì chưa tìm cho thấu triệt, để ôn lại với nhau,
truyền đạt cho nhau về ý nghĩa bức tranh Họa Đồ Tâm Linh Việt khắc ghi trên
trống. Nơi đây ta sẽ thấy cả một nghệ thuật sống của đạo lý Việt : Chỉ là một
chữ HÒA thật lớn lao. Minh Triết HÒA ấy bộc lộ rõ ràng : Mặt trời ở giữa trung
tâm, đó là HÒA TRỜI. Như là Hòa với nguồn ánh sáng nuôi dưỡng vạn vật, sự sống
cho muôn lòai. Rồi những vòng thú vật hiền lành, các con chim, nai bé nhỏ chính
là vòng của đạo sống HÒA với ĐẤT. Và giữa cái cảnh trời đất mênh mông niềm hòa
ái ấy, con người mới HÒA NGƯỜI với nhau.Đó là chính từ cảnh hòa hợp khắp cùng
trời đất vạn vật, con người làm nên cuộc đại diễn hành thiêng liêng ca múa bên
nhau với trời cùng đất. Trên trống đồng chính là cảnh “Ta cùng trời đất ba
ngôi sánh, Trời - Đất - Ta đây một chữ đồng”.
Bức họa đồ ấy vẽ nên những
nét căn cơ của đời sống. Nét căn cơ ấy là Bản Chất
và cũng là Hành Trình của con người. Bản chất
con người tóm gọn chỉ là giao điểm của tinh thần vô biên với vật thể hữu hạn.
Hành trình của con người chẳng qua là cuộc hành hương về với bản gốc mình, có
nhịp tiến lên thanh cao mà cũng có bước đi xuống lưu hành cùng thế tục. Đó là ý
nghĩa chữ GIAO CHỈ của Việt tộc. Giao Chỉ
là giao lại, nối kết hai Chỉ (hai đầu mối, hai thái cực) Trời và Đất, hai đối
cực làm nên con người. Cho nên nói con người là vật chất, như duy vật là “duy
chỉ” chứ chưa là “Giao Chỉ”, nên còn tách biệt phân ly thực tại hai chiều Lưỡng
Hợp của Chân Lý Việt. Nói con người là linh thiêng xa rời xác thân, vật thể cũng
là “duy chỉ” chứ chưa phải là ‘“Giao Chỉ”. Con người là “Giao Chỉ” có nghĩa là
con người là một nơi hội tụ, ràng buộc, tương giao của trời và đất, hữu hạn với
vô cùng. Trên trống đồng chúng ta thấy tinh thần “Giao Chỉ” cùng cực.
Trời không cô lẻ, đất cũng
chẳng xa rời, con người khắc ghi cái cảm thức Hòa điệu Trời - Đất -Người bằng
vòng người hóa trang chim nhảy múa theo chiều minh triết tả nhậm. Chúng ta thấy
tinh thần ca vũ, hóa trang với lông chim với sự thanh thóat bay bổng của cháu
TIÊN. Và chúng ta cũng thấy Tiên không một mình, mà trên tang trống ( thành
trống) lại có nét khắc họa cảnh chim Tiên lao thẳng vào miệng Rồng tạo thành
cảnh Tiên Rồng hòa hợp sánh đôi để rồi sẽ sinh ra một bọc trăm Con Rồng Cháu
Tiên mà Triết Gia Kim Định đã mô tả bằng từ ngữ rất gợi hình: “Thuyền Tình Bể
Ái” Tiên Rồng.
Thuyền Tình Bể Ái Tiên Rồng
Ngoài ra, chữ VĂN trong
từ ngữ Văn Lang cũng cùng ý nghĩa trời đất giao thoa như GIAO của giao
Chỉ. Nước ta quốc hiệu Văn Lang tức là đất nước của con người đã đạt mức độ Văn
Trời - Văn Đất, tương quan với Trời cùng Đất. Trên Trống Đồng, họa đồ Con Người
Giao Hòa cùng Trời Đất, ca múa những bước hòa nhịp Văn Lang, mà Triết Gia Kim
Định đã đặt tên vũ điệu này là Văn Lang Vũ Bộ.
Như vậy, tìm hiểu trống
đồng cổ vật quý của văn minh Đông Sơn thời Hùng Vương, cũng như các khía cạnh
khác về kích thước, sự luyện kim trong kỹ thuật đúc trống…, chỉ là mới tìm hiểu
cái hình thức bên ngòai, các yếu tố vật chất của trống. Nhưng khi mà chúng ta
tìm hiểu thâm sâu thêm vào ý nghĩa của trống, qua các hoa văn, thì đó mới là tìm
lại những gì trường cửu hơn, văn hóa hơn, nội tâm hơn, mới đúng như cái nhìn
ngắm để rồi nghe được “Tiếng Vọng của Linh Hồn Việt”.
Hay nói cách khác, nếu thế
giới hôm nay đang miệt mài say sưa hữu vi duy vật quá độ, xa rời yếu tính Giao
Chỉ tâm linh, nên gần kề cơ nguy hủy diệt, thì tìm về ý nghĩa Minh Triết Trống
Đồng chính là việc kéo con người về với cái luật quân bình tự nhiên An Vi, để
sinh tồn. Nghĩa là sống với Đạo Trống. Trống dùng như danh từ, là cái trống, về
hình thể bên ngòai. Mà động từ Trống là sự hư tĩnh trống không. TRỐNG chính là HƯ TÂM, theo đạo Trống là làm cho lòng trống không (cái Không dọn đường chứa
đựng cái Có, tương tự như Chân Không Diệu Hữu) như tâm thức trong suốt trẻ
thơ. Thiên đàng nào ở đâu xa, chính ngay tại tâm thức Giao lại Chỉ Trời và Chỉ
Đất, Văn lại cái Hữu Hình với Siêu Hình. Nơi Tâm Thức Vô Phân Biệt hai cõi Hữu
và Vô, con người đạt đến cái ngây thơ hồn nhiên của tâm hồn trẻ thơ, chính là
Tâm Đạo. Cho nên, Triết Việt là đường về Nội Tâm, tiếp cận được cảnh giới siêu
việt, chan hòa niềm an vui thanh tịnh, giao hòa được với bản thể sinh mệnh hai
chiều đại ngã tâm linh. Do đó, Triết Việt là triết của TÂM nên rất
ĐƠN SƠ mà NỀN TẢNG,
chỉ vài nét chạm khắc nghệ thuật như hình Tiên Rồng HAI
chiều lưỡng nghi hòa hợp, hay BA vòng đại
diễn Trời- Đất- Người cũng đủ đúc cốt xây nền cái trụ cột chính của Họa Đồ Tâm
Linh Dân Tộc Việt.
Từ đó, nếu đọc đúng được
họa đồ di chúc tinh thần của tổ tiên thì con cháu được an lành, đời là cuộc diễn
hành về nhất thể thiêng liêng, như hoa hướng dương hướng về mặt trời Chân Lý.
Nếu không đọc đúng, sai một ly đi một dặm, thì phải lâm vào khổ nạn của sai lầm,
bất an cả thể xác lẫn tâm hồn, đắm chìm trong thế giới đau thương và hủy diệt.
Cuối cùng chúng ta nhận ra rằng trăm sự khổ đau, bất an của con người xuất phát
từ tư tưởng giới hạn, vì dùng TRÍ nhiều hơn TÂM, nên chỉ thấy cái chẻ nhỏ của
thực tại, chỉ thấy khía cạnh mà chưa thấy cái toàn thể. Chỉ thấy con người của
cá nhân tiểu ngã, con người lý trí, con người của đòan lũ, con người của phe
nhóm, con người của tôn giáo… Đó là con người còn thiển cận, nhỏ bé, hẹp hòi,
nên gọi là con người
“Duy Chỉ”.
Con người “GIAO CHỈ” là phải lớn lao hơn, cao cả hơn, là con người tự thân, tự
do, đơn sơ, tinh tuyền một chữ NGƯỜI không pha tạp bất cứ sắc mầu nào. Cho nên,
Triết Gia Kim Định cứ kêu thống thiết lên rằng: “Đạo mất trước, nước mất sau”.
Do đó, muốn cứu nước, cứu nhà, trước tiên ta phải tìm về Đạo Việt, Đạo GIAO CHỈ
của nguồn Minh Triết Việt.
Một cách
hình ảnh hơn, ta có thể nói rằng Đạo Việt chính là Đạo Trống. Có để lòng trống
không, thì mới giao hòa được bao cái mâu thuẫn, chia rẽ chính bản thể của mình
với vũ trụ, nhân sinh, trong bao đa đoan, đa sự của cuộc đời… Bình An và Chân
Hạnh Phúc nào đến được khi ta chưa mở lòng cho Trống, cho Không.
Thật thế,
Đạo Trống đã khắc ghi trên các hoa văn có con dấu ấn LƯỠNG HỢP, THÁI HÒA hay là
HAI- BA, dấu chỉ đường về với Đạo. Đọc lịch sử quê hương, ta thấy biết bao
thăng trầm, vinh nhục. Và mang Đạo Trống quán chiếu, ta thấy ngay tầm ảnh hưởng
của bức họa đồ sinh tử của dân tộc Việt. Hôm nay, trên bước bất đắc chí phải
tha hương, nói đến chuyện cứu quốc, kiến quốc, thì không thể không tìm lại một
họa đồ thích hợp với căn tính Việt để xây nhà Việt, cho người Việt khỏi lâm cảnh
không cửa không nhà, tinh thần bơ vơ không nơi trú ngụ. Một dân tộc có bản sắc
5000 năm không bị tiêu trầm, chắc hẳn tấm họa đồ của dân tộc ấy phải chứa đựng
nổi hồn thiêng văn hóa của giống nòi. Chắc hẳn nền văn hóa ấy phải đủ sức sống
mãnh liệt để hàng ngàn năm dòng máu Lạc Việt cứ tuôn đổ ra để bảo vệ nó qua
bao thăng trầm. Tấm họa đồ ấy trong thời thanh bình an lạc Hùng Vương đã khắc
ghi cái tâm tình, trí tuệ, đau thương của giống nòi Việt Tộc trên hoa văn của
Trống Đồng mà đại biểu là Trống Đông Sơn rực rỡ một thời.
Bài tìm
hiểu Triết Việt về Minh Triết Trống Đồng này của chúng tôi chỉ như một gợi ý,
không có tham vọng giải thích được hết cái đạo, cái tình, cái ý, cái chí của tổ
tiên. Chỉ là những phác họa lại trong muôn một, cái Hồn của đất Việt, cái Tâm
của Đạo Việt, bức Họa Đồ Tâm Linh Dân Tộc Việt, để chúng ta cùng chia sẻ với
nhau gia tài tinh thần của Tổ Tiên trao gửi lại nơi các hoa văn trên
Trống Đông Sơn Gọi Hồn Dân Tộc.
| |